Cổng TTĐT Bộ Quốc phòng   |   English
  • Quốc phòng - An ninh
  • Đối ngoại
  • Chính trị - Xã hội
  • Quốc tế
  • Quân sự thế giới
  • Kinh tế
  • Văn hoá -Thể thao
  • Khoa học - Công nghệ
  • Đời sống
Web Content Viewer
  • Kinh tế
  • Trong nước
  • Thế giới
Web Content Viewer
Trang chủ  »  Kinh tế » Trong nước
Print  E-mail

Doanh nghiệp sau cổ phần hóa - cần sự thay đổi

10:37 | 31/03/2017

(Bqp.vn) - Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được thực hiện thí điểm từ năm 1992, đến nay đã khẳng định tính hiệu quả của việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Chủ trương này đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, huy động được những nguồn lực to lớn cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Đa số các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp sau cổ phần hóa, trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay cần phải chủ động thay đổi cơ bản về “chất”, thay đổi từ tư duy đến hành động và có những chiến lược cụ thể, bước đi phù hợp...

Thực hiện nghiêm túc chủ trương sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp của Đảng, Nhà nước, thời gian qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã nỗ lực và quyết liệt đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong quân đội. Từ 2002 - 2013, Bộ Quốc phòng đã triển khai cổ phần hóa các doanh nghiệp quân đội theo 4 giai đoạn, hình thành được 55 công ty cổ phần, trong đó có 2 doanh nghiệp đã thoái hết vốn nhà nước. Giai đoạn 2013 - 2016, Bộ Quốc phòng đã cổ phần hóa 7 doanh nghiệp và phê duyệt phương án cổ phần hóa 2 doanh nghiệp, đang chuẩn bị phát hành cổ phiếu; đã và đang xác định giá trị 28 doanh nghiệp.

Về công tác thoái vốn Nhà nước, Bộ Quốc phòng đã hoàn thành thoái vốn ở 3 doanh nghiệp; thoái vốn đợt 1 được 2 doanh nghiệp; phê duyệt phương án để triển khai bán vốn Nhà nước tại 9 doanh nghiệp. Chỉ tính riêng 55 công ty cổ phần hình thành từ cổ phần hóa trong giai đoạn 2002 - 2013, có 47 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi (chiếm 85%), trong đó 28 công ty chia cổ tức hàng năm trên 12%; đảm bảo việc làm cho gần 30.000 lao động với thu nhập bình quân 7,5 triệu đồng/người/tháng. Sau cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp trong quân đội phát triển tốt, tiêu biểu như: Ngân hàng TMCP Quân đội (MB), Công ty Cổ phần Phú Tài, Công ty Cổ phần Xây lắp Thành An 96, Công ty Cổ phần Tập đoàn Hà Đô… góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh hợp tác, đầu tư ra nước ngoài, thúc đẩy đối ngoại kinh tế, đối ngoại quốc phòng…

Việc thay đổi mô hình hoạt động sau cổ phần hóa cũng tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp khai thác triệt để và sử dụng tốt hơn cơ sở vật chất kỹ thuật, cũng như năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Sau cổ phần hóa, các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật như vốn, lợi nhuận, nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước, việc làm, thu nhập và quyền lợi của người lao động đều được đảm bảo. Nhiều doanh nghiệp nhờ phát hành thêm cổ phiếu, huy động được vốn đầu tư, đã phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm nhiều lao động hơn… Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những đơn vị hiệu quả kinh doanh thấp sau cổ phần hóa do năng lực cạnh tranh thấp; thiếu chiến lược trong kinh doanh và quản lý sử dụng vốn đầu tư; thiếu cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn chất lượng cao; giám sát hoạt động doanh nghiệp chưa chặt chẽ; đầu tư ra ngoài chưa lường hết những khó khăn, phức tạp; mất cân đối vốn chủ sở hữu, nợ bảo hiểm, nợ thuế, nợ ngân hàng, nợ đối tác, nợ lương người lao động lớn…

Cùng với đó, nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa còn lúng túng trong quy hoạch, bố trí dây chuyền sản xuất hoạt động kinh doanh, như xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà xưởng... Việc khai thác, tìm nguồn vốn cho hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh cũng là một vấn đề khó khăn. Nhiều doanh nghiệp còn chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị doanh nghiệp; kinh nghiệm, khả năng quản lý, quản trị hiện đại của nhiều cán bộ doanh nghiệp cũng còn những hạn chế nhất định so với yêu cầu quản lý của hình thức công ty cổ phần; chưa xây dựng được hệ thống giá trị cốt lõi gắn với văn hóa của doanh nghiệp; vấn đề phát huy dân chủ, lợi ích của người lao động và cổ đông ở một số doanh nghiệp cũng chưa được đảm bảo…

Những khó khăn, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, cả từ phía khách quan và chủ quan của chính doanh nghiệp. Từ những bất cập do sự thiếu đồng bộ trong các chính sách liên quan đến cổ phần hóa doanh nghiệp, thiếu đồng bộ giữa các chính sách cổ phần hóa và sau cổ phần hóa đối với các doanh nghiệp; sự thiếu đồng bộ trong việc xác định vốn, tài sản doanh nghiệp, giải quyết lao động dôi dư, nâng cao kiến thức làm chủ doanh nghiệp đối với người lao động, việc lựa chọn cán bộ quản lý, việc xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp… Ngoài ra còn do thực tế đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa chủ yếu vẫn là đội ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp trước cổ phần hóa, nên với nhiều doanh nghiệp thì sự chuyển đổi về kiến thức, phương thức, phong cách, kỹ năng quản lý… đối với công ty cổ phần còn có những bất cập.

Hiện các doanh nghiệp cổ phần hóa không chỉ đứng trước nhiều thách thức từ việc chuyển đổi mô hình hoạt động mới, mà còn chịu sức ép mạnh mẽ của hội nhập. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế là sự nghiệp chung và hội nhập cũng sẽ là cơ hội mới cho những ai biết nắm bắt. Cơ hội không thể tự biến thành lợi ích mà phụ thuộc vào năng lực của từng doanh nghiệp, hội nhập không tốt thì cơ hội cũng sẽ trở thành thách thức…

Để có thể thích ứng và bắt kịp với xu thế chung, doanh nghiệp cần phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình để chủ động hội nhập thị trường, thay vì bị cuốn theo xu thế hội nhập, phải coi động lực từ cổ phần hóa, từ quá trình hội nhập chính là điều kiện để đổi mới, phát triển doanh nghiệp. Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững cho doanh nghiệp, trong thời gian tới các doanh nghiệp cổ phần hóa cần:

Một là, các doanh nghiệp cần tăng khả năng thích nghi với mô hình hoạt động mới và thích nghi được với những biến chuyển mau lẹ của thị trường; phổ biến, quán triệt để nâng cao nhận thức về cổ phần hóa đến đông đảo cán bộ, công nhân viên chức, người lao động, xem đó là giải pháp cốt lõi để có chiến lược, bước đi phù hợp. Cùng với đó, cần có biện pháp tuyên truyền, giải thích cho người lao động nhận thức được đúng đắn, đầy đủ về quyền lợi, trách nhiệm của họ đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp cổ phần hóa về mọi mặt cho phù hợp với môi trường kinh doanh mới, bởi sự hụt hẫng về kiến thức cũng như kỹ năng quản lý công ty cổ phần của cán bộ quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự kém hiệu quả và không ổn định trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Hai là, cần xác định rõ quản trị doanh nghiệp là yếu tố căn bản để đảm bảo tăng trưởng hiệu quả, phát triển bền vững trong dài hạn. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần đổi mới và thay đổi về quy trình quản trị, xây dựng quy chế quản trị doanh nghiệp bài bản nhằm giúp doanh nghiệp hoạt động chuyên nghiệp, hiệu quả; đồng thời cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chế quản lý nội bộ nhằm tạo ra một cơ chế quản trị thống nhất và xuyên suốt để kiểm soát, giám sát hoạt động của doanh nghiệp, góp phần đảm bảo lợi ích của cổ đông và sự hài hòa với lợi ích của các bên liên quan. Việc xây dựng một cơ cấu quản trị vững mạnh cần dựa trên cơ sở tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam và vận dụng các nguyên tắc, chuẩn mực theo thông lệ quốc tế. Qua đó, góp phần tăng cường hiệu quả quản lý, quản trị điều hành của doanh nghiệp; đồng thời tăng cường tính minh bạch, nhất quán và đảm bảo sự phát triển bền vững của doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng tối đa các nguồn lực để phát triển, tạo lòng tin cũng như nâng cao uy tín thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư.

Ba là, muốn đứng vững trong điều kiện kinh tế đất nước hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu thì nhất thiết phải tiến hành xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp, có vai trò to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và được coi là nền tảng để phát triển doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xây dựng và bảo vệ được các giá trị cốt lõi, mang được bản sắc văn hóa riêng của từng doanh nghiệp, đúng và phù hợp với thực tiễn của từng doanh nghiệp, với hoạt động sản xuất, kinh doanh và với đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp đó.

Bốn là, xây dựng được chiến lược cụ thể cho doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm… Yêu cầu này xuất phát từ chính bản thân từng doanh nghiệp hoặc yêu cầu của ngành nghề kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải thích ứng, để có thể tồn tại và phát triển. Sau cổ phần hóa, các đặc quyền, đặc lợi sẽ không còn tồn tại, do đó doanh nghiệp phải có chiến lược cạnh tranh hữu hiệu, chọn đúng, trúng ngành nghề, phát triển sản phẩm mới, tích cực mở rộng thị trường, phát triển quan hệ với đối tác để ký kết được nhiều hợp đồng mới, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế… Xây dựng mô hình tổ chức sản xuất sau cổ phần hóa cần đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả và tính toán phương án sản xuất kinh doanh tối ưu nhất để vừa tiết kiệm, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các sản phẩm cần đảm bảo được về chất lượng, tiến độ, hiệu quả… Cần lấy chất lượng làm tiêu chí, đặt lợi ích của khách hàng lên trên và tôn trọng đối thủ cạnh tranh.

Năm là, phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực công nghệ bên ngoài. Thực hiện chiến lược đổi mới khoa học - công nghệ, tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh để nâng cao năng suất, chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm. Chú trọng đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở những ngành, lĩnh vực then chốt, có thế mạnh của doanh nghiệp, cùng với đó dự báo xu hướng phát triển của công nghệ tương lai để xác định chiến lược, sách lược phù hợp, nhằm không ngừng tạo ra các sản phẩm mới hoặc các sản phẩm có sự khác biệt.

Sáu là, đảm bảo quyền lợi và phát huy dân chủ, vai trò làm chủ thực sự của người lao động và cổ đông. Ngoài mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhằm giúp người lao động trực tiếp tại các xí nghiệp, công ty trở thành cổ đông, tức là đồng chủ sở hữu thực sự của doanh nghiệp, chứ không phải là những người chỉ làm chủ trên danh nghĩa như trước đây. Vì vậy, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa cần có các chính sách cụ thể để đảm bảo được quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động và cổ đông; cần thực hiện đổi mới cơ chế quản lý để đảm bảo cho người lao động giữ được cổ phần, phát huy tốt quyền làm chủ của mình, để cùng tham gia quản lý công ty, yên tâm làm việc, gắn bó quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình với doanh nghiệp.

Bảy là, trong quá trình phát triển, doanh nghiệp cần phải tăng cường ý thức đạo đức chung, xây dựng tinh thần trách nhiệm và quan tâm đến an sinh xã hội như tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về bảo vệ môi trường, sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường và thực hiện “tăng trưởng xanh”, tích cực ủng hộ, tài trợ cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, thúc đẩy khoa học - kỹ thuật phát triển và tiến bộ… Thông qua các hoạt động nhân đạo và văn hóa, hình ảnh của doanh nghiệp sẽ trở nên tốt đẹp hơn, uy tín của doanh nghiệp cũng được nâng lên. Đó cũng là hướng phát triển lành mạnh, thiết thực để các doanh nghiệp đóng góp ngày càng nhiều hơn cho xã hội.

Tám là, tuân thủ nghiêm túc các cam kết quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam đã, đang và sẽ ký kết. Việc thực hiện các cam kết quốc tế đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp không còn được hưởng các ưu đãi, không còn những đặc quyền, đặc lợi, cạnh tranh một cách bình đẳng và sòng phẳng. Các doanh nghiệp sẽ hoạt động theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, hiệu quả và chất lượng sẽ là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp. Và nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải hiểu luật và hợp tác, bởi nếu doanh nghiệp không hiểu, không tuân thủ tốt, thì doanh nghiệp khó tận dụng được các cơ hội từ hội nhập.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng là mục tiêu, là cái đích hướng tới và cũng là mong muốn tất yếu từ phía bản thân mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được điều đó đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực thay đổi cơ bản về “chất” từ phía các doanh nghiệp, mà còn cần có sự quan tâm của Nhà nước ở tất cả các ngành, các cấp trong việc đổi mới và cải cách triệt để mọi quy trình, thủ tục nhằm hỗ trợ tối đa và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển; đồng hành, hỗ trợ, kịp thời giải quyết các vướng mắc đối với doanh nghiệp. Đó là một trong những vấn đề quan trọng để thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp của Đảng, Nhà nước.

Thiếu tướng, TS Võ Hồng Thắng, Cục trưởng Cục Kinh tế, Bộ Quốc phòng

File đính kèm :

các tin khác

  • Cổ phiếu MIG của Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Quân đội chính thức lên sàn UPCOM (18:05 | 05/05/2017)
  • Ngân hàng TMCP Quân đội triển khai giai đoạn chiến lược 2017 - 2021 (17:51 | 27/04/2017)
  • Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (10:59 | 27/04/2017)
  • Tăng cường kiểm tra, giám sát tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (17:20 | 25/04/2017)
  • Hội nghị Xúc tiến đầu tư - Thương mại - Du lịch tỉnh Trà Vinh năm 2017 (18:14 | 24/04/2017)
  • Hoàn thiện Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 (22:24 | 23/04/2017)
  • Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tập trung thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (10:02 | 20/04/2017)
  • 77 doanh nghiệp được tặng Giải thưởng Chất lượng Quốc gia năm 2016 (22:36 | 01/04/2017)
  • Doanh nghiệp sau cổ phần hóa - cần sự thay đổi (10:37 | 31/03/2017)
  • MIC phấn đấu đạt doanh thu 4.500 tỷ đồng giai đoạn 2017 - 2022 (19:24 | 29/03/2017)
TIÊU ĐIỂM
  • Thủ tướng ban hành Quyết định số 574/QĐ-TTg về quy chế tiếp nhận, xử lý và trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ
  • Năm APEC 2017: Tầm nhìn và vị thế mới của Việt Nam
  • Quân đội đẩy mạnh cải cách hành chính trong tình hình mới
  • Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khai mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
  • Quy định về định mức giờ chuẩn giảng dạy và nghiên cứu khoa học đối với nhà giáo trong quân đội
  • Kết quả Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 30 và các hoạt động liên quan
chuyên đề - sự kiện
  • 80 năm Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam
  • 80 năm Cách mạng tháng Tám & Quốc khánh 2.9
  • 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
  • 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam
  • Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024
Ảnh

Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc lần thứ 9

Trang chủ  |  Báo điện tử QP  |  Thư điện tử  |  Bạn đọc
BÁO ĐIỆN TỬ QUỐC PHÒNG - CƠ QUAN TRUYỀN THÔNG ĐA PHƯƠNG TIỆN CỦA QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG VÀ BỘ QUỐC PHÒNG
Địa chỉ: Số 1B, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội * Tel: +84-69.696154 * Fax: +84-4.37334163 * Email: info@mod.gov.vn
Website: bqp.vn, mod.gov.vn * Cơ quan quản lý: Trung tâm Thông tin KHQS/BQP
Giấy phép hoạt động: 402/GP-BTTTT, ngày 26/9/2013
® Ghi rõ nguồn bqp.vn hoặc mod.gov.vn khi phát hành lại thông tin từ Báo điện tử Quốc phòng.