(Bqp.vn) - Sau Hiệp định Viêng-chăn ngày 21/2/1973 [1], tuy đã rút hết cố vấn, nhân viên quân sự nhưng Mỹ chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Lào. Chúng câu kết với bọn phản động và sử dụng lực lượng tay sai để phá hoại Hiệp định, tiếp tục ném bom bắn phá và tiến công lấn chiếm vùng giải phóng [2]. Trước tình hình đó, để làm tròn sứ mệnh lịch sử mà nhân dân giao phó, Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào nhanh chóng đề ra những chủ trương, quyết sách chiến lược phù hợp với thực tiễn cách mạng, lãnh đạo toàn quân, toàn dân tiến hành cuộc đấu tranh và nổi dậy giành chính quyền cách mạng thắng lợi, dẫn tới sự ra đời của nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào (CHDCND) vào ngày 2/12/1975.

Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Lào tuyên bố xóa bỏ chế độ quân chủ, khai sinh nước CHDCND Lào (Viêng-chăn, ngày 2/12/1975). (ảnh tư liệu)
Trở lại tình hình, ngày 4/10/1973, Bộ Chính trị Trung ương Đảng NDCM Lào họp đánh giá thắng lợi to lớn của cách mạng Lào qua việc ký kết Hiệp định Viêng-chăn; đồng thời nhận định: “Tình hình đã chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, từ đấu tranh quân sự, chính trị sang đấu tranh chính trị, pháp lý, từ hai vùng [3] sang ba vùng [4] chiến lược với phương châm chỉ đạo khác nhau” [5]; do đó, phương hướng và nhiệm vụ cách mạng Lào trong thời gian tới là: “Giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc và thống nhất quốc gia, tăng cường lực lượng cách mạng về mọi mặt, kiên quyết bảo vệ và xây dựng vùng giải phóng trở thành căn cứ địa vững chắc của cả nước. Tuyên truyền, giáo dục động viên mọi lực lượng đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân trong vùng tạm kiểm soát của đối phương, đòi cải thiện dân sinh, thực hiện quyền tự do dân chủ, đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Viêng-chăn;... kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu hành động phá hoại của bọn đế quốc và phản động, tiến công đẩy lùi từng bước cho đến làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ” [6]. Chủ trương trên của Đảng NDCM Lào là ngọn đuốc soi đường, là cơ sở pháp lý quan trọng cho nhân dân các bộ tộc Lào tiến lên giành những thắng lợi mới trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng NDCM Lào đề ra, triệt để tận dụng những điều kiện thuận lợi khách quan và chủ quan mang lại, phát huy ưu thế cách mạng, kết hợp chặt chẽ các hình thức đấu tranh: chính trị, quân sự, pháp lý bằng phương pháp thích hợp, quân và dân Lào nhanh chóng triển khai đấu tranh.
Từ cuối năm 1974, phong trào đấu tranh của quần chúng trong hai thành phố trung lập (Viêng-chăn và Luông-pha-băng) và vùng tạm kiểm soát của phía Viêng-chăn diễn ra hết sức mạnh mẽ. Để hướng các phong trào vào thực hiện những mục tiêu chính của cách mạng, tháng 11/1974, Trung ương Đảng NDCM Lào ra Nghị quyết về tình hình và phương hướng nhiệm vụ công tác trong hai thành phố trung lập và vùng tạm kiểm soát, nhấn mạnh: Đi đôi với thực hiện nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ và xây dựng vùng giải phóng trở thành chỗ dựa cách mạng trong cả nước, còn phải ra sức động viên phong trào cách mạng trong hai vùng nói trên với tinh thần khẩn trương, tranh thủ mọi thời cơ phối hợp giữa các hình thức đấu tranh, nhất là giữa phong trào đấu tranh của quần chúng với đấu tranh về pháp lý, lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước tiếp tục tiến lên.
Có chủ trương đúng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp bộ Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng ở hai vùng này ngày càng lan rộng và sôi nổi. Từ cuộc đấu tranh chính nghĩa đòi hoà bình, đòi quyền tự do dân chủ đã biến thành cuộc nổi dậy giành chính quyền từng bộ phận. Ngày 1/5/1975, nhân dân Noọng Bốc, tỉnh Khăm Muộn nổi dậy đấu tranh chống tham nhũng, đòi dân chủ và công lý. Mấy ngày sau, học sinh và viên chức ở Thà Khẹc (Khăm Muộn) cũng tổ chức biểu tình đòi giải tán Quốc hội khoá 7, đòi thực hiện Cương lĩnh 18 điểm [7], đòi gạt bỏ những viên chức tham nhũng ở đây... Đến tháng 2/1975, các cuộc nổi dậy giành quyền làm chủ của quần chúng nhân dân và các cuộc binh biến của binh sĩ có tinh thần yêu nước nổi dậy tách ra khỏi lực lượng quân đội phái hữu bùng nổ ở hầu khắp các địa phương trong cả nước Lào.
Như vậy, đến thời điểm này, tình thế cách mạng đã chín muồi, nhân dân trong vùng do phía Viêng-chăn tạm kiểm soát sau nhiều năm chịu cuộc sống cơ cực không còn muốn sống dưới chế độ cũ nữa; bọn cầm quyền phản động bị nhân dân lên án mạnh mẽ và không thể tiếp tục chấp chính, các tầng lớp trung gian đều hướng về phía cách mạng. Trong khi đó, cuộc kháng chiến của nhân dân Cam-pu-chia và Việt Nam cũng có những thắng lợi quan trọng. Ngày 17/4/1975, lực lượng cách mạng và nhân dân Cam-pu-chia làm chủ hoàn toàn Phnôm-pênh. Ngày 30/4/1975, nhân dân Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những thắng lợi trên đã tác động trực tiếp tới tình hình cách mạng Lào. Cơ hội lịch sử “ngàn năm có một” để nhân dân Lào giành chính quyền trong cả nước đã đến!
Với tư duy chính trị nhạy bén, ngày 5/5/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng NDCM Lào họp, quyết định giành chính quyền trong cả nước với nội dung: “Giương cao ngọn hoà bình, độc lập, dân chủ và hoà hợp dân tộc, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tiến lên trên cơ sở nhận thức đúng đắn về mục tiêu cơ bản của cách mạng, nhận rõ trách nhiệm có tính chất lịch sử đối với Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế, nắm vững thời cơ lịch sử ngàn năm có một, đề cao quyết tâm cách mạng, vươn lên động viên tập hợp lực lượng chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, pháp lý và đối ngoại trong cả ba vùng chiến lược, tích cực tạo thời cơ và nhanh chóng nắm vững thời cơ với phương pháp cách mạng đúng đắn với sách lược linh hoạt, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào phản động tay sai của đế quốc Mỹ. Tiến công địch trên mọi lĩnh vực và ở mọi nơi, nhằm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ một cách cơ bản trong cả nước, tích cực góp phần vào sự nghiệp cách mạng ba nước Đông Dương và thế giới” [8].
Để khởi nghĩa giành chính quyền đạt kết quả cao nhất, Đảng NDCM Lào hạ quyết tâm tiến công địch bằng thế trận của cả ba vùng với ba đòn chiến lược:
Một là, đòn nổi dậy giành chính quyền của nhân dân;
Hai là, đòn binh biến của binh sĩ nổi dậy tách ra khỏi quân đội phái hữu quay về hợp tác với các lực lượng yêu nước;
Ba là, sử dụng lực lượng yêu nước làm áp lực kết hợp với mũi đấu tranh pháp lý mềm dẻo và kiên quyết. Thực tế đã minh chứng, chủ trương giành chính quyền thực hiện theo các bước và phương thức nổi dậy đánh địch mà Đảng NDCM Lào đề ra là hoàn toàn đúng đắn, mang tầm chiến lược và tránh được tổn thất.
Mở đầu cao trào là cuộc nổi dậy của nhân dân Thủ đô Viêng-chăn nhân ngày Quốc tế Lao động 1/5/1975. Sau đó, ở tất cả các đô thị và khắp vùng nông thôn thuộc quyền kiểm soát của phía Viêng-chăn, nhân dân nhanh chóng đứng lên khởi nghĩa chống lại các thế lực phản cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của các Ủy ban nổi dậy, các tầng lớp nhân dân tổ chức biểu tình, mít tinh chống đế quốc Mỹ và tay sai kết hợp với vận động binh lính địch rã ngũ. Cùng thời gian đó, được sự hỗ trợ của quần chúng, Quân giải phóng nhân dân Lào nhanh chóng chớp thời cơ tiêu diệt địch. Ngày 6/5/1975, Quân đội Lào mở cuộc tiến công vào ngã ba Sa-la Phu-khun rồi phát triển sang chiếm lĩnh Đường 13, làm rung chuyển hệ thống phòng ngự chiến lược Thủ đô Viêng-chăn, mở đầu cho những đòn sấm sét quyết định đánh vào đầu não kẻ thù.

Quân giải phóng Nhân dân Lào trên đường vào tiếp quản Viêng-chăn, năm 1975. (ảnh tư liệu)
Có thể nói, trong suốt hai thập kỷ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, chưa bao giờ cách mạng Lào lại có khả năng giành chính quyền lớn đến như vậy. Để phong trào diễn ra mạnh mẽ hơn nữa, ngày 15/5/1975, đồng chí Cay Xỏn Phôm-vi-hản thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ thị cho các đồng chí Uỷ viên Trung ương phụ trách các hướng, các tỉnh, các mặt trận phải nắm vững và sử dụng “ba đòn chiến lược” để thực hiện bằng được yêu cầu của Bộ Chính trị đề ra là “xoá bỏ chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân...”. Ngay sau khi có Chỉ thị này, cuộc đấu tranh giành chính quyền trong toàn Lào diễn ra nhanh chóng và giành thắng lợi vang dội. Ngày 17/6/1975, nhân dân tỉnh Bô-ly-khăm-xay tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng; ngày 20/6, tỉnh Xiêng-khoảng được hoàn toàn giải phóng; ngày 3/7, nhân dân tỉnh Chăm-pa-xắc tổ chức mít tinh tuyên bố xoá bỏ chính quyền bù nhìn, thành lập chính quyền cách mạng; ngày 21/8, chính quyền cách mạng ở Luông-pha-băng được thành lập và ngày 23/8, hơn hai vạn nhân dân họp mít tinh tại Thạt-luổng để chào mừng việc tuyên bố thành lập chính quyền tại Thủ đô Viêng-chăn. Đến cuối tháng 8/1975, bộ máy chính quyền quân đội của phía Viêng-chăn từ cấp tỉnh, thành xuống đến cơ sở đã bị xoá sạch, chính quyền cách mạng được thành lập trong cả nước.
Thắng lợi trọn vẹn trong phong trào đấu tranh và nổi dậy giành quyền của nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào được đánh dấu bằng Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc diễn ra từ ngày 1 - 2/12/1975 tại Thủ đô Viêng-chăn. Đại hội tuyên bố xoá bỏ hoàn toàn vĩnh viễn chế độ phong kiến lỗi thời, thành lập chế độ Cộng hoà dân chủ nhân dân, quy định quốc huy, quốc kỳ, quốc ca và ngôn ngữ chính thức; quyết định thành lập Hội đồng Nhân dân Tối cao và Chính phủ CHDCND Lào do đồng chí Xu-pha-nu-vông làm Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Tối cao; đồng chí Cay Xỏn Phôm-vi-hản làm Thủ tướng Chính phủ.
Sự ra đời của nước CHDCND Lào là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào, có ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc. Đúng như Tổng Bí thư Đảng NDCM Lào Cay Xỏn Phôm-vi-hản đã khẳng định: “Với thắng lợi này, nhân dân ta đã xoá bỏ hoàn toàn ách thống trị thực dân đã đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta hơn 80 năm qua, chấm dứt giai đoạn cay đắng của dân tộc ta... đưa nhân dân các dân tộc trong nước ta từ người nô lệ tiến lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội” [9]. Thắng lợi này cũng mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước Lào, đó là kỷ nguyên “nước Lào tiến nhanh và vững chắc trên con đường độc lập, tự chủ, thống nhất và thịnh vượng, bảo đảm cho nhân dân các dân tộc có một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc mãi mãi” [10].
40 năm trôi qua, thế giới có biết bao đổi thay, đất nước Lào đang vững bước trên con đường đổi mới và hội nhập. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển, đất nước Lào cũng luôn phải đối mặt với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Trong bối cảnh đó, việc phát huy sáng tạo những bài học kinh nghiệm lịch sử, đặc biệt là bài học về sự chỉ đạo chiến lược của Đảng NDCM Lào kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc đất nước Lào trong giai đoạn cách mạng mới.
[1] Hiệp định Viêng-chăn thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của nhân dân Lào. Mỹ và Thái Lan phải chấm dứt hoàn toàn và vĩnh viễn mọi hành động can thiệp ở Lào. Cố vấn, nhân viên quân sự Mỹ và quân đội Thái Lan phải rút ra khỏi lãnh thổ Lào...
[2] Chỉ tính riêng từ ngày 22/2/1970 đến 20/5/1973, chúng đã gây ra 5.600 vụ vi phạm, cho hơn 5.200 lượt máy bay đánh phá, 300 lần lấn chiếm, hơn 100 lần tung biệt kích vào vùng giải phóng Lào...
[3] Vùng giải phóng và vùng do phía Viêng-chăn tạm kiểm soát.
[4] Vùng giải phóng, vùng do phía Viêng-chăn tạm kiểm soát và vùng trung lập (gồm hai thành phố Viêng-chăn và Luông-pha-băng).
[5] Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào: Lịch sử quân đội nhân dân Lào, bản dịch tiếng Việt, lưu Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số kí hiệu VL3352, tr.228.
[6] Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb CTQG, Hà Nội.2005, tr.169-170.
[7] Nội dung của Cương lĩnh 18 điểm là xây dựng một nước Lào hoà bình, độc lập, trung lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.
[8] Ban Chỉ đạo nghiên cứu lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào: Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb CTQG, Hà Nội.2005, tr.177-178.
[9] Tìm hiểu lịch sử - văn hoá nước Lào, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.1981, tr.49.
[10] Tuyên bố của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Lào ngày 2/12/1975. Xem thêm Lịch sử Lào, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.1997, tr.508.