(Bqp.vn) - Đại tướng Văn Tiến Dũng, người con ưu tú của Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến, sinh ngày 2/5/1917. Mồ côi cha mẹ từ sớm, ông phải bỏ học phụ giúp gia đình; đến tuổi trưởng thành, ông vào nội thành làm công nhân trong xưởng dệt của một chủ tư bản. Cuộc sống nhọc nhằn, khốn khó của kẻ làm thuê dưới ách đè nén, bóc lột của giới chủ tư bản đã hối thúc Văn Tiến Dũng “xông xáo đi tìm lối thoát” [1]. Đây cũng chính là dấu mốc khởi đầu sự nghiệp cách mạng của một vị tướng văn võ song toàn, mà mỗi bước đường thăng tiến của ông đều gắn liền với những thang bậc thắng lợi huy hoàng của dân tộc trong hai cuộc trường chinh, lần lượt đánh bại những đế quốc đầu sỏ nhất thời đại trong thế kỷ XX là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, tiếp đó là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Ông là nhà chỉ huy tham mưu chiến lược xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đại tướng Văn Tiến Dũng điện báo tin Chiến thắng Tây Nguyên tháng 3/1975. (ảnh tư liệu)
1. Từ một người công nhân trở thành Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Là công nhân làm việc trong xưởng dệt tư bản, với tư chất thông minh, bản lĩnh cương trực, bất bình trước cảnh công nhân bị bóc lột sức lao động đến cùng cực, mà đồng lương vô cùng rẻ mạt, Văn Tiến Dũng đã đứng lên phản đối, rồi vận động anh em đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện chế độ làm việc. Được cơ sở cách mạng bí mật giác ngộ, bồi dưỡng và giới thiệu, Văn Tiến Dũng trở thành đảng viên cộng sản (1937); được cử làm Bí thư Chi bộ ngành dệt Thành phố Hà Nội (1938); tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1939).
Cuối năm 1939, Văn Tiến Dũng bị thực dân Pháp bắt với tội danh tàng trữ tài liệu, sách báo, tuyên truyền các khẩu hiệu của Đệ tam Quốc tế, gây rối trị an và kết án khổ sai. Hai năm sau, ông đã trốn thoát khi địch dẫn giải từ Sơn La về Hà Nội. Phải mất một thời gian, lúc “sắm vai” thợ mộc, khi “đóng giả” người làm thuê, thậm chí cả xuống tóc đi tu để che mắt địch, Văn Tiến Dũng mới bắt được liên lạc với tổ chức; và lần lượt được chỉ định làm Bí thư Ban cán sự đảng tỉnh Hà Đông, tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ.
Tháng 8/1944, sau khi hoàn thành khóa học quân sự tại an toàn khu trở về, Văn Tiến Dũng lại bị bắt giữ và một lần nữa ông vượt ngục thành công, “để lại đằng sau” bản án tử hình vắng mặt của tòa hình sự thực dân Pháp. Đây cũng chính là dấu mốc khởi đầu cuộc đời binh nghiệp của ông. Tại Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ (4/1945), Văn Tiến Dũng được cử vào Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, là Ủy viên Thường trực, phụ trách việc chấn chỉnh Chiến khu Quang Trung, tham gia thành lập Cứu quốc quân (I, II, III), chỉ đạo công tác chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa tháng Tám, giành chính quyền ở các tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình và Ninh Bình.
Với tư chất thông minh, cùng với những kiến thức cơ bản thâu lượm từ khóa quân sự ở an toàn khu và kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo được đúc rút trong nhiều năm tháng hoạt động cách mạng trước đó, nên từ sau khi nước nhà độc lập, Văn Tiến Dũng được Đảng, Chính phủ giao nhiều nhiệm vụ và cương vị trọng yếu trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thực hiện chủ trương “hòa để tiến” của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí nhiều lần trực tiếp lên mặt trận Sơn La chỉ huy chiến đấu. Trong hồi ký sau này, đồng chí bày tỏ: Đây cũng là những tháng ngày giúp tôi biết việc xây dựng chính trị, xác định vai trò Đảng lãnh đạo trong quân đội và dần dần am hiểu cách tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị trong bộ đội. Với kiến thức và kinh nghiệm thực tế quý báu này, đồng chí được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Chính trị Bộ Quốc phòng kiêm Phó Bí thư Trung ương Quân ủy [2], được phong quân hàm Thiếu tướng.
Trên cương vị mới, đồng chí Văn Tiến Dũng chỉ đạo Cục Chính trị tiến hành Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ nhất (2/1947), bàn định phương hướng, biện pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế cấp ủy lãnh đạo, hệ thống cơ quan chính trị các cấp, đề ra 12 điều kỷ luật dân vận, 10 nhiệm vụ của công tác chính trị trong quân đội, quyết định ra tờ báo Vệ quốc quân; mặt khác, ban hành Chỉ thị về việc thông tin thời sự cho bộ đội, mở Hội nghị tuyên truyền và báo chí toàn quân (7/1947)... Với các hoạt động này, đồng chí Văn Tiến Dũng đã có những đóng góp lớn vào việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân và xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị, hệ thống cơ quan chính trị làm nòng cốt tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị; đồng thời góp phần nâng cao trình độ chính trị, rèn luyện tinh thần chiến đấu, bảo đảm cho quân đội trưởng thành và chiến thắng vẻ vang.
Khi Đại đoàn 320 (Đại đoàn Đồng bằng) được thành lập (1/1951), nhận thấy “tư chất văn - võ” vượt trội của Thiếu tướng Văn Tiến Dũng, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh thống nhất điều động và bổ nhiệm ông làm Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy [3].
Thực hiện phương châm: vừa chiến đấu, vừa xây dựng; lực lượng có bao nhiêu đánh bấy nhiêu; có vũ khí gì dùng vũ khí ấy; tranh thủ thời cơ tiêu diệt địch, mặc dù mới chỉ có trong tay 4 tiểu đoàn thiếu cả quân số và trang bị theo biên chế, nhưng với tư tưởng chỉ đạo “trận đầu phải thắng, chiến dịch đầu phải thắng”, trong Chiến dịch Sơn Tây, bằng hình thức bí mật luồn sâu vào vùng sau lưng địch, nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa, rồi bất ngờ tấn công diệt gọn 9 đồn địch và phục kích đánh quân địch tiếp viện. Chỉ huy đánh thắng trận đầu, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng đã đưa Đại đoàn đi từ cách đánh du kích lên tác chiến chính quy, từ phân tán lên tập trung, từ đánh tiêu hao lên đánh tiêu diệt. Đây cũng là thử thách đầu tiên của Đại đoàn trưởng - Chính ủy Văn Tiến Dũng. Đến Chiến dịch Quang Trung, với tư tưởng chỉ đạo không ngừng tiến công và chủ trương đánh “nở hoa trong lòng địch” là sự phát triển phương thức luồn sâu tác chiến trong lòng địch của ông, các chiến sĩ Đại đoàn 320 đã phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích các tỉnh Hà Nam, Nam Định liên tục tiến công địch, tiếp tục giành thắng lợi.
Tiếp đó, để phối hợp với mặt trận chính Hòa Bình, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng và chỉ huy Đại đoàn 320 quyết định tiến công thị trấn Phát Diệm - cụm cứ điểm vững chắc (gồm 10 vị trí) nằm sâu trong khu căn cứ hậu phương an toàn của địch. Với đòn bất ngờ này, chỉ sau một đêm, ta đã làm chủ Phát Diệm. Phát huy chiến quả này, trong vòng nửa tháng sau đó, phong trào chiến tranh nhân dân địa phương phát triển mạnh mẽ, hầu hết địa bàn huyện Yên Mô, một phần huyện Kim Sơn được giải phóng, các khu du kích được củng cố vững chắc và mở rộng thêm.
Sau những thắng lợi ở Ninh Bình, Chỉ huy Đại đoàn 320 quyết định tiến quân sang Tả ngạn sông Hồng, biến hậu tuyến của địch thành tiền phương của ta. Với quyết định hết sức táo bạo, mới mẻ và sáng tạo này, Văn Tiến Dũng tiếp tục chỉ huy Đại đoàn lập công lớn, loại khỏi vòng chiến đấu một bộ phận quan trọng sinh lực địch, xây dựng được nhiều căn cứ du kích ở các địa phương.
Với tài năng quân sự được minh chứng trong nhiều năm hoạt động, nhất là những chiến công xuất sắc ở chiến trường Đồng bằng Bắc bộ kể từ khi làm Đại đoàn trưởng - Chính ủy Đại đoàn 320, tháng 11/1953, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị quyết định bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, được bổ sung vào Tổng Quân ủy.
Đảm trách cương vị Tổng Tham mưu trưởng vào thời điểm quyết định của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng đã điều hành Bộ Tổng Tham mưu thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, làm nên trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ. Sau đó, ông được cử làm Trưởng đoàn đại biểu của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trong Ủy ban liên hiệp đình chiến Trung ương thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam (7/1954).
Như vậy, sau hơn hai thập niên hoạt động cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, từ một công nhân dệt, đồng chí Văn Tiến Dũng đã trở thành Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng mưu lược và quyết đoán của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Với thắng lợi quyết định Điện Biên Phủ, tại Giơ-ne-vơ, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết. Tuy nhiên, là một thành viên của Hội nghị này, Mỹ đã phủ định bằng cách đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn lập nên chính quyền mới làm công cụ thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam. Một cuộc chiến đấu mới lại bắt đầu.
Với cương vị người đứng đầu cơ quan tham mưu chiến lược trọng yếu về quân sự - quốc phòng cho Đảng và Nhà nước, ngay sau khi hòa bình lập lại, đồng chí Văn Tiến Dũng đã tập trung chỉ đạo và điều hành Bộ Tổng Tham mưu xây dựng kế hoạch tác chiến phòng thủ miền Bắc; kế hoạch này được hoạch định trên cơ sở những quan điểm, đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ mới, sát với đối tượng tác chiến, khả năng của đất nước và quân đội... Sau khi được Bộ Chính trị phê chuẩn (4/1956), Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ thị cho các quân khu triển khai thực hiện kế hoạch: điều chỉnh địa bàn đứng chân của một số đại đoàn, trung đoàn; các quân khu có đường biên giới chung với Lào tăng cường công tác biên phòng và tiến hành chi viện, giúp đỡ cách mạng Lào đấu tranh với địch và xây dựng lực lượng vũ trang.
Để chuẩn bị thực lực cho kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thể theo các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II và nghị quyết Bộ Chính trị về kế hoạch xây dựng quân đội, đồng chí Văn Tiến Dũng chỉ đạo và điều hành triển khai các đề án xây dựng lực lượng biên phòng, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, kế hoạch xây dựng các đơn vị Bộ đội Nam bộ và Liên khu 5; cơ cấu lại các quân khu trên miền Bắc và các cơ quan, đơn vị thuộc Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng cùng một số nhà trường quân đội, cơ quan Bộ Tổng Tham mưu và công tác sản xuất, kiến thiết quốc phòng; thành lập Cục Phòng thủ bờ biển; nghiên cứu và biên soạn hệ thống điều lệnh, điều lệ, chế độ công tác của quân đội và hoàn thiện cơ sở pháp lý để chuyển quân đội từ chế độ tình nguyện sang chế độ nghĩa vụ quân sự. Đồng thời, đồng chí cũng chỉ đạo đôn đốc sát sao việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện Đề án xây dựng dân quân 1956 - 1959; tổ chức lực lượng vũ trang, hậu phương cho cách mạng miền Nam, trước hết là tổ chức huấn luyện một số cán bộ tập kết để chuẩn bị đưa trở lại miền Nam chiến đấu, xây dựng các tuyến vận tải chiến lược trên bộ, trên biển để chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ... Nhờ sự chủ động chuẩn bị này, nên khi Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 15, quyết định sử dụng bạo lực vũ trang đánh địch, thì đây chính là “đòn xeo” để nhân dân miền Nam đứng dậy làm nên thắng lợi Đồng khởi, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, mở ra bước
Với những đóng góp và uy tín cao của cá nhân, đồng thời khẳng định vị thế rất quan trọng của người đứng đầu Bộ Tổng Tham mưu trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng được Đảng và Nhà nước thăng quân hàm vượt cấp lên Thượng tướng (8/1959); được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị; được bổ nhiệm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (9/1960); được chỉ định làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương [4] (1/1961).
Khi cách mạng miền Nam tiến hành Đồng khởi - chuyển thế tiến công thì đế quốc Mỹ cũng tìm cách xoay chuyển tình thế bằng cách thay đổi các chiến lược chiến tranh, từ “chiến tranh đặc biệt” rồi “chiến tranh cục bộ” đến “Việt Nam hóa chiến tranh”. Thấm nhuần quan điểm “hiểu địch, hiểu ta, trăm trận trăm thắng”, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ đạo các cơ quan chức năng chủ động nghiên cứu các học thuyết quân sự của Mỹ, nắm các âm mưu, thủ đoạn tác chiến, từng loại vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch để có những giải pháp đối phó kịp thời, hiệu quả; đồng thời chỉ đạo các tuyến vận tải chiến lược chi viện lực lượng, vũ khí cho các hướng chiến trường đủ sức đánh địch. Kết quả là, trong những năm 1961 - 1965, quân và dân ta đã từng bước đánh bại các biện pháp chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”, “phượng hoàng vồ mồi”... của địch, nâng quy mô tác chiến từ những trận Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là... (1963) lên những chiến dịch như An Lão, Bình Giã... đã góp phần quyết định làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Để đỡ đòn đau ở miền Nam, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn ra miền Bắc. Trên cơ sở nền tảng lực lượng vũ trang ba thứ quân được xây dựng, củng cố trong một thập niên sau hòa bình, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã chỉ đạo việc tăng cường quân số, vũ khí cho lực lượng phòng không ba thứ quân, nhanh chóng xây dựng hệ thống trận địa, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ; xây dựng kế hoạch hiệp đồng tác chiến, nghiên cứu các thủ đoạn đánh phá của không quân địch. Đồng chí nhiều lần trực tiếp xuống Sở chỉ huy Quân chủng Phòng không - Không quân, đến tận trận địa để kiểm tra, động viên, khích lệ tinh thần cán bộ, chiến sĩ. Với sự chỉ đạo sát sao, quan tâm đó, lực lượng phòng không miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bắn rơi hàng ngàn máy bay các loại, bắt nhiều giặc lái Mỹ.
Nhận thấy thời cơ lớn của cách mạng xuất hiện, đồng chí Văn Tiến Dũng đã tham mưu cho Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968); đồng thời trực tiếp chỉ đạo các cơ quan của Bộ xây dựng kế hoạch tác chiến, kế hoạch bổ sung lực lượng và vũ khí cho chiến trường; điện chỉ đạo các hướng chiến trường xây dựng kế hoạch tác chiến cụ thể của mình. Khi kế hoạch Tổng tiến công được Trung ương phê chuẩn, Thượng tướng Văn Tiến Dũng chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu xây dựng kế hoạch, điều lực lượng chủ lực vào phối hợp cùng lực lượng tại chỗ mở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, thu hút lực lượng cơ động địch ra đây để cầm chân, tiêu hao chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho toàn miền tiến công và nổi dậy. Với tính toán và điều hành mưu lược đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân trên toàn miền Nam đã diễn ra đúng ý định, giành thắng lợi lớn, buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận đàm phán về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình với Chính phủ ta tại Pa-ri, tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đến đây, chiến lược “chiến tranh cục bộ” cơ bản phá sản, đế quốc Mỹ đã xuống thang, triển khai kế hoạch “phi Mỹ hóa” rồi chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Tuy giành được thắng lợi lớn, có ý nghĩa chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh, nhưng ta cũng đã bị tổn thất nghiêm trọng cả về lực lượng và về thế trận. Để khắc phục tình trạng này, với trọng trách của mình, một mặt, đồng chí Văn Tiến Dũng góp phần cùng Trung ương bàn định chủ trương, phương hướng khắc phục; mặt khác, chỉ đạo các hướng chiến trường nhanh chóng nghiên cứu tìm ra các giải pháp xử lý hiệu quả. Trên dưới đồng lòng, hiệp sức, toàn quân làm nòng cốt cùng cả nước vào cuộc với tinh thần “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, lực và thế của cách mạng miền Nam nhanh chóng phục hồi.
Để nhanh chóng giành lại khí thế chiến thắng, tạo chỗ dựa cho bàn đàm phán Pari, khi địch mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh ra địa bàn Đường 9 - Nam Lào, nhận thấy đây là thời cơ để tiêu diệt lớn quân địch, đồng chí Văn Tiến Dũng tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng mở Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971. Kế hoạch chiến dịch được chấp thuận, ông được Trung ương cử làm đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Với các sư đoàn chủ lực được trang bị mạnh, huấn luyện tốt, có sự hậu thuẫn của quân và dân địa phương trên địa bàn chiến dịch (cả ta và bạn Lào), chúng ta đã giành thắng lợi lớn, loại khỏi vòng chiến đấu một bộ phận quan trọng lực lượng tinh nhuệ, phá hủy, phá hỏng và thu giữ một số lượng lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch, giữ vững tuyến chi viện chiến lược 559. Quan trọng hơn, thắng lợi này chứng tỏ Quân đội Việt Nam Cộng hòa - công cụ chủ yếu để đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” không đủ sức đương đầu với chủ lực Quân giải phóng miền Nam.
Sau thắng lợi Đường 9 - Nam Lào, với tầm nhìn chiến lược sâu rộng, đồng chí Văn Tiến Dũng tham mưu và đề xuất Trung ương mở tiếp cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các địa bàn chiến lược Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên. Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng tiếp tục được cử làm đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ đạo hướng chủ yếu Trị - Thiên tiến công giành thắng lợi lớn: giải phóng tỉnh Quảng Trị, khích lệ và tạo đà cho toàn miền tiến công và nổi dậy, tạo nên thắng lợi quyết định làm thay đổi cục diện chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta. Cùng với thắng lợi này, tại Hội nghị Pa-ri, Mỹ đã phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do ta soạn thảo, dự kiến ngày ký kết, tuy sau đó chúng lại trì hoãn và mở cuộc tập kích bằng không quân chiến lược với cường độ hủy diệt đối với Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc Việt Nam.
Nắm bắt kịp thời mưu đồ xảo quyệt, hành động phi nhân tính của địch, thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng chỉ đạo triển khai kế hoạch tác chiến phòng không đánh trả Không quân Mỹ. Ông ra lệnh củng cố, tăng cường hệ thống sở chỉ huy tác chiến các cấp, điều động lực lượng, tăng cường hệ thống trận địa phòng không ba thứ quân, trong đó lực lượng phòng không chủ lực làm nòng cốt. Lường định tính ác liệt của cuộc đọ sức lần này, ông liên tục cử nhiều đoàn cán bộ Bộ Tổng Tham mưu; nhiều lần đích thân xuống kiểm tra, đôn đốc và động viên cán bộ, chiến sĩ ở thời điểm chuẩn bị và cả khi trận chiến đã diễn ra. Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, động viên kịp thời, ý chí kiên cường và tinh thần sáng tạo trong chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ được phát huy cao độ, nên chỉ trong 12 ngày đêm, quân, dân Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc đã làm nên một trận “Điện Biên Phủ trên không” gây chấn động nước Mỹ và thế giới, bắn hạ 81 máy bay hiện đại, trong đó có 34 máy bay B-52 của không quân Mỹ. Với thất bại này, Mỹ phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, ký Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam. Thời cơ lớn để quân và dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc đã mở ra.
Theo chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng thành lập và điều hành “Tổ Trung tâm” thuộc Cục Tác chiến triển khai xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam (4/1973). Sau nhiều lần điều chỉnh, bổ sung bản kế hoạch mới hoàn chỉnh và được Hội nghị Bộ Chính trị (18/12/1974 - 8/1/1975) thông qua. Tây Nguyên được chọn làm điểm mở màn cuộc quyết chiến chiến lược cuối cùng này. Thượng tướng, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị phái vào Tây Nguyên, cùng một số cán bộ thuộc các cơ quan chức năng của Bộ, tổ chức thành bộ phận đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng ở chiến trường - mang mật danh Đoàn A75 [5].
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đoàn A75 do Tổng Tham mưu trưởng đứng đầu, Chiến dịch Tây Nguyên (4/3 - 3/4/1975) - đòn khởi đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 chính thức mở màn; tiếp đến là Chiến dịch Trị - Thiên - Huế (5 - 26/3/1975), rồi Chiến dịch Đà Nẵng (26 - 29/3/1975) diễn ra và giành thắng lợi. Toàn bộ địa bàn Tây Nguyên và miền Trung được giải phóng; Chiến dịch tiến công Sài Gòn - Gia Định mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh [6], do Đại tướng Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh bắt đầu.
Với 5 binh đoàn [7] chủ lực cơ động, cùng toàn bộ lực lượng vũ trang và nhân dân trên địa bàn chiến dịch, chỉ sau 5 ngày tiến công (26 - 30/4/1975), Chiến dịch Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi, kết thúc vẻ vang sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Như vậy, Đại tướng Văn Tiến Dũng là vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đồng hành trọn vẹn với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một cuộc chiến tranh dài nhất, khốc liệt nhất, tốn kém và tổn thất lớn nhất của dân tộc Việt Nam trong lịch sử chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Đại tướng Văn Tiến Dũng - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng những năm đầu xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại và tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Trong những năm đầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau khi đất nước thống nhất, Đại tướng Văn Tiến Dũng tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp chỉ đạo các lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội tham gia củng cố các vùng mới giải phóng, từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh; triển khai nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố nền quốc phòng, khẩn trương chuẩn bị và tiến hành chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Từ tháng 2/1980 đến tháng 2/1987, Đại tướng Văn Tiến Dũng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư thứ nhất, rồi Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Thời gian này, Bộ trưởng tập trung chỉ đạo xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao trình độ, sẵn sàng chiến đấu, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, làm thất bại thủ đoạn chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, đồng thời chỉ đạo quân đội tham gia xây dựng kinh tế đất nước.
Quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế biển gắn liền với công cuộc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia đối với biển, đảo của Tổ quốc, Đại tướng cùng Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng chú trọng xây dựng lực lượng hải quân, không quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ biển thực sự là lực lượng vũ trang nòng cốt, chuyên trách hoạt động trên biển, bảo vệ chủ quyền, tài nguyên, bảo vệ nhân dân; quản lý, duy trì việc thực thi pháp luật trên các vùng biển; giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nạn, chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên vùng biển... làm chỗ dựa vững chắc cho ngư dân và các thành phần kinh tế sản xuất và khai thác tài nguyên biển.
Là một chiến lược gia quân sự xuất sắc, dạn dày kinh nghiệm trận mạc, khi được phân công chỉ đạo công tác tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự, Đại tướng Văn Tiến Dũng trực tiếp chỉ đạo Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị thực hiện các công trình như: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học; Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học; Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 -1975) - Thắng lợi và bài học. Đại tướng Văn Tiến Dũng còn trực tiếp nghiên cứu, biên soạn những tác phẩm như: Đi theo con đường của Bác; Quyết tâm đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; Đại thắng mùa Xuân; Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; Cuộc kháng chiến chống Mỹ toàn thắng; Từ trong bão táp; Bàn về những kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta; Mấy vấn đề về nghệ thuật chiến dịch của chiến tranh nhân dân Việt Nam; Mấy vấn đề nghệ thuật quân sự Việt Nam... Đây không chỉ là đóng góp to lớn cho kho tàng lý luận và nghệ thuật quân sự Việt Nam, mà nhiều tác phẩm trong số này đã trở thành tài liệu phục vụ hữu hiệu cho huấn luyện và đào tạo, nghiên cứu khoa học quân sự tại các học viện, nhà trường của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Đánh giá về người Cục trưởng Cục Chính trị Bộ Quốc phòng, Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đại đoàn 320, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gắn liền với từng bước trưởng thành vững mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế cao cả dưới thời đại Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người anh Cả của quân đội ta khẳng định: “Đại tướng Văn Tiến Dũng - một vị tướng có tinh thần quyết thắng lớn và tài thao lược xuất chúng, một người cộng sản kiên cường, bất khuất - đã cống hiến cả cuộc đời cho lý tưởng của Đảng, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [8].
[1]. Đại tướng Văn Tiến Dũng: Đi theo con đường của Bác (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 7.
[2]. Theo Sắc lệnh số 16/SL, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 12/2/1947.
[3]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2/1951), đồng chí Văn Tiến Dũng được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
[4]. Ngày 23/1/1961, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa III) ra quyết nghị tổ chức Quân ủy Trung ương thay cho Tổng Quân ủy.
[5]. Theo quy ước, Đại tướng Văn Tiến Dũng lấy bí danh là Tuấn (4/1974, Thượng tướng Văn Tiến Dũng được Nhà nước thăng quân hàm Đại tướng), Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương lấy bí danh là Chiến.
[6]. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh; ngày 22/4, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh thông qua lần cuối kế hoạch chiến dịch và được Bộ Chính trị phê duyệt.
[7]. Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết thắng), Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang), Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên), Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), Đoàn 232 (tương đương quân đoàn - binh đoàn).
[8]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Đại tướng Văn Tiến Dũng - Một vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam”, in trong Nhớ mãi Đại tướng Văn Tiến Dũng (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 49.