(Bqp.vn) - Cách đây tròn 50 năm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giành thắng lợi hoàn toàn, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, đã tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là minh chứng sáng rõ về đỉnh cao của nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, nghệ thuật quân sự, tổ chức lực lượng của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh tại căn cứ Tà Thiết - Lộc Ninh, tháng 4/1975. (Ảnh: TTXVN)
Đường lối chính trị, quân sự đúng đắn
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là trận quyết chiến chiến lược có sự tham gia, phối hợp, hiệp đồng của nhiều đơn vị binh chủng hợp thành với các quân chủng, binh chủng và lực lượng vũ trang địa phương, đòi hỏi công tác chuẩn bị chiến đấu, đặc biệt là huấn luyện chiến đấu phải được tiến hành khẩn trương, công phu, nghiêm ngặt, tạo nên sức mạnh tổng hợp vượt trội chiến thắng kẻ thù... Trên tất cả, nhân tố quyết định làm nên chiến thắng vĩ đại này là sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo, phát động chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, huy động cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đánh bại kẻ thù xâm lược.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng; kế thừa, phát triển truyền thống đánh giặc, giữ nước và nghệ thuật quân sự đặc sắc của dân tộc, trực tiếp là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, nhằm huy động cao nhất sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đội quân xâm lược nhà nghề, giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Đường lối quân sự của Đảng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 được thể hiện trên những nội dung cơ bản: Phát động chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt. Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, nắm vững thời cơ mở những đòn tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành thắng lợi quyết định. Kết hợp chặt chẽ giữa khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng; giữa chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích; giữa nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy đề giành thắng lợi hoàn toàn. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị. Những nội dung đó đã cho thấy sự đúng đắn trong đường lối quân sự của Đảng, cũng là sự thể hiện đậm nét phương châm đấu tranh, chủ trương xuyên suốt của Đảng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Phản ánh trình độ mới của nghệ thuật chiến dịch
Nghệ thuật quân sự trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc và kinh nghiệm của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đó là đỉnh cao của nghệ thuật chọn thời cơ, huy động và sử dụng lực lượng, nghệ thuật điều hành chiến dịch, nghệ thuật chọn hướng tiến công, nghệ thuật nắm bắt thời cơ, nghệ thuật kết thúc chiến tranh...
Trước hết, cần khẳng định Chiến dịch Hồ Chí Minh là đỉnh cao nghệ thuật nắm bắt đúng thời cơ chiến lược, hạ quyết tâm mở chiến dịch chính xác, kịp thời. Từ quyết tâm chiến lược cơ bản giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, sau thắng lợi vang dội ở Tây Nguyên, Trị Thiên - Huế và Đà Nẵng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã kịp thời nhận định và bổ sung quyết tâm mới, nắm bắt đúng thời cơ chiến lược, chỉ đạo tổ chức tiêu diệt ngụy quân Sài Gòn ở Quân khu 1 và bộ phận còn lại ở Quân khu 2, không cho chúng co cụm về Sài Gòn - Gia Định; đồng thời, chỉ đạo tập trung lực lượng, vật chất kỹ thuật, quyết tâm thực hiện thắng lợi trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng Sài Gòn - Gia Định, kết thúc chiến tranh ngay trong năm 1975, rồi trước mùa mưa và cuối cùng là ngay trong tháng 4/1975. Quán triệt quyết tâm của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã hạ quyết tâm thực hiện chiến dịch chính xác, kịp thời. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã mở đầu đúng thời gian quy định và nhanh chóng kết thúc thắng lợi, đánh bại kế hoạch tác chiến của địch.
Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã cho thấy nghệ thuật chỉ đạo tài tình, sáng suốt và huy động, sử dụng lực lượng của Đảng mà hạt nhân là Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, thông suốt từ Trung ương đến từng cánh quân trong trận quyết chiến cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn, kết thúc chiến tranh theo cách của ta.
Đáng chú ý, nghệ thuật quân sự nhân văn, nhân đạo truyền thống Việt Nam được thể hiện ngay trong trận cuối cùng giải phóng Sài Gòn, miền Nam, thống nhất Tổ quốc của thời đại Hồ Chí Minh. Với sức mạnh của đội quân cách mạng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, lúc này chúng ta đủ sức đánh tiêu diệt toàn bộ lực lượng còn lại của địch, làm tan rã chính quyền Sài Gòn. Nhưng trước giờ phút sinh tử của chính quyền và quân đội Sài Gòn, đội quân chiến thắng của ta đã thực hiện “Mở đường hiếu sinh”, bắt buộc và cho phép đối phương hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện để mở đường sống, thực hiện hòa hợp dân tộc trong thời đại mới.
Nghệ thuật chiến dịch lấy đại nghĩa làm trọng, thực hiện khoan dung, hòa hợp dân tộc đã được thể hiện bằng việc tuyên bố đầu hàng không điều kiện của Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Dương Văn Minh trưa 30/4/1975. Đây là hành động cần thiết, kịp thời, thể hiện sự khôn khéo, quyết đoán, không chỉ có ý nghĩa giải phóng Sài Gòn nhưng vẫn giữ được gần như nguyên vẹn, mà còn trực tiếp kết thúc cuộc chiến nhanh nhất, hạn chế tổn thất ở mức thấp nhất, làm mất ý chí và điều kiện của những thế lực chống đối muốn “tử thủ”, đồng thời dập tắt mọi hy vọng về “thương lượng đàm phán” vốn đã bị Mỹ và chính quyền Sài Gòn chà đạp, phá hoại ngay sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Điều này phản ánh một trình độ mới của nghệ thuật chiến dịch, kết thúc chiến tranh nhân dân Việt Nam thời hiện đại, buộc đối phương phải kết thúc chiến tranh theo cách của chiến tranh cách mạng có lợi nhất.

Xe tăng của Quân Giải phóng tiến vào dinh Độc Lập trưa 30/4/1975. (Ảnh: TTXVN)
Tạo ưu thế lực lượng
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam, ta đã tiến hành chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn tạo được ưu thế áp đảo địch về lực lượng. Sau những thắng lợi từ hai đòn tiến công chiến lược ở Tây Nguyên và Trị Thiên - Huế, Đà Nẵng, với khí thế và quyết tâm rất cao, ta đã tập trung được lực lượng ưu thế hơn hẳn địch cả về số lượng và chất lượng, bằng cách nhanh chóng cơ động hầu hết lực lượng chủ lực từ miền Bắc, miền Trung vào địa bàn chiến dịch, tổ chức thành công nhiều binh đoàn chiến lược hành quân thần tốc đường dài, vừa đi, vừa chuẩn bị chiến đấu, vừa liên tục chiến đấu.
Với nghệ thuật tạo ưu thế về lực lượng hợp lý, khoa học, ta đã hình thành nên các binh đoàn chủ lực cơ động có sức tiến công rất mạnh, tốc độ tiến công cao, đánh địch với ưu thế hơn hẳn và hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch với thời gian ngắn nhất. Về quy mô sử dụng lực lượng, tính đến ngày 25/4/1975, ta đã tập trung cho Chiến dịch được khoảng 270.000 quân (chủ lực 250.000 quân) với 15 sư đoàn, 14 trung đoàn bộ binh, tổ chức thành 4 quân đoàn và Đoàn 232 (tương đương 1 quân đoàn), một số trung đoàn, lữ đoàn độc lập.
Binh khí kỹ thuật cũng được ta tập trung khối lượng rất lớn, với hơn 1.000 khẩu pháo các loại, 1 đại đội máy bay A-37; 320 xe tăng, xe thiết giáp... Lực lượng quần chúng có tổ chức được chuẩn bị làm nòng cốt cho nổi dậy trong thành phố đến trước Chiến dịch cũng khá hùng hậu. Cùng với đó, ta còn huy động được hơn 1.600 xe kỹ thuật chiến đấu, hơn 10.000 xe vận tải và một khối lượng vật chất lên tới gần 60.000 tấn; trong đó, có 15.000 tấn đạn (190.000 viên đạn pháo lớn)...
So sánh về số lượng và chất lượng, đặc biệt, về “quả đấm” chủ lực, rõ ràng ta có ưu thế áp đảo về lực lượng so với địch (tỷ lệ ta/địch là 1,7/1 về chủ lực và 3/1 về đơn vị tập trung). Đây là một điều đặc biệt của Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chưa từng có. Đồng thời, việc ta xây dựng, tập trung được các quân đoàn 1, 2, 3, 4, các sư đoàn của các quân khu 7, 8, 9 và trung đoàn bộ binh của Quân khu 6 là điều kiện vô cùng quan trọng và cũng là những kinh nghiệm sinh động của việc chuẩn bị cho đòn quyết chiến chiến lược trong giai đoạn cuối chiến tranh. (Theo “Nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận trong Chiến dịch Hồ Chí Minh”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, 28/4/2023)
Các chiến dịch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã chứng minh: sức mạnh tác chiến của các binh đoàn chiến lược được phát huy hiệu quả cao nhất khi thực hiện cách đánh tập trung, hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn. Với cách đánh này, Chiến dịch Hồ Chí Minh đưa khả năng đánh tiêu diệt địch của ta lên tầm cao mới, tiêu diệt từng sư đoàn, quân đoàn địch, phá vỡ từng mảng lớn trong hệ thống phòng thủ chiến lược cuối cùng của chúng. Các binh chủng bảo đảm chỉ huy, cơ động và chi viện cho bộ binh chiến đấu. Không quân và Hải quân sẵn sàng làm nhiệm vụ phối hợp cùng bộ binh giải phóng các đảo.
Bằng nghệ thuật tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc, chiến dịch tạo ra thế trận tiến công vững chắc, phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, khiến ngụy quyền Sài Gòn rơi vào thế khốn cùng, dẫn đến kết cục thất bại thảm hại cả về quân sự và chính trị. Có thể khẳng định, tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc là nét độc đáo, đặc sắc nhất của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần tạo nên ưu thế về lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp đánh thắng chiến tranh xâm lược của quân đội nhà nghề Mỹ, với tiềm lực quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Trọn nửa thế kỷ đã trôi qua, thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh mãi để lại những bài học kinh nghiệm to lớn về nghệ thuật chiến dịch nói chung, nghệ thuật tổ chức sử dụng lực lượng nói riêng.