(Bqp.vn) - Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh trí tuệ thiên tài, tâm hồn trong sáng, trọn đời vì nước, vì dân của một Lãnh tụ vĩ đại, người chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết của phong trào giải phóng dân tộc và của cả loài người tiến bộ; Nhà văn hóa kiệt xuất, Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam. Trong Di chúc, mọi suy nghĩ, lời căn dặn, mong ước của Người đối với Đảng và Nhân dân ta đều thấm đẫm tình yêu thương đất nước, con người, mang đậm tính nhân văn, nhân đạo cao cả, sâu sắc. Di chúc của Người không chỉ là một văn kiện lịch sử vô giá mà còn chứa đựng những giá trị mang ý nghĩa thời đại, đã và đang định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi mới.
1. Nội dung cốt lõi, giá trị định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bản Di chúc mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã trở thành một di sản vô cùng quí báu trong kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam, chứa đựng những giá trị định hướng thiên tài, giá trị nhân văn sâu sắc. Giá trị định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện về quá trình cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng chế độ xã hội mới; về đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ và chăm lo đời sống của nhân dân, vì con người và sự nghiệp giải phóng con người; về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên lập trường khoa học, cách mạng, có giá trị định hướng chiến lược, chỉ đạo nhận thức và hành động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”...
50 năm qua, những định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chỉ Minh đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới kiểm chứng và khẳng định. Những nội dung cốt lõi của giá trị định hướng thiên tài trong Di chúc của Người bao gồm những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, dự báo chính xác về thời gian, không gian và kết quả thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Sự chính xác của dự báo này kết tinh ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Bản Di chúc đầu tiên Người viết từ ngày 10/5 đến ngày 15/5/1965 đã khẳng định niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, dù thời điểm ấy, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang ở giai đoạn vô cùng gay go, quyết liệt nhưng Người đã lạc quan dự báo: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn” [1]. Trong bản Di chúc của Người được Bộ Chính trị Đảng ta công bố năm 1969, Người viết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn” và “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” [2].
Tất cả những điều Người dự báo đều đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm chính xác. Đó là, sau 6 năm bản Di chúc của Người được công bố (1969), mùa Xuân năm 1975, nhân dân ta đã hoàn thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã thực hiện thành công lời căn dặn và mong ước của Người.
Hai là, giá trị định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dự báo mô hình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Mô hình xã hội mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dự báo, thể hiện khát vọng cháy bỏng của Người là: “Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [3]. Đây là sự hội tụ, kết tinh tư tưởng của Người về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với nhãn quan chính trị sắc sảo và tầm nhìn xa, trông rộng, Di chúc như một thiết kế lý luận về đổi mới và phát triển, một kế hoạch, chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về quản lý xã hội như đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; cải cách chế độ giáo dục, đào tạo; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; giải quyết mối quan hệ phát triển kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; động lực lợi ích và chăm lo chu đáo cuộc sống của nhân dân; đề cao tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc nước, là chủ thể của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Di chúc còn phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển, đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ... “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” [4]. Vì thế, Người yêu cầu: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân” [5].
Ba là, giá trị định hướng thiên tài nổi bật trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Trong Di chúc, lời căn dặn đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước hết nói về Đảng” và trong bản bổ sung năm 1968 Người lại viết: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn Đảng”. Những lời dặn lại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên được những điều chính yếu nhất của nhiệm vụ xây dựng Đảng. Xây dựng củng cố Đảng là điều Người luôn trăn trở, tập trung biết bao công sức, suốt mấy chục năm ròng. Người cho đó là điều quan trọng hàng đầu để cách mạng thắng lợi, để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [6]. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhất thiết phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; Đảng phải thực sự gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Di chúc của Người xác định rõ những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là: Giữ gìn mối đoàn kết thống nhất trong Đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng; nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh chống tham ô, lãng phí. Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” [7]; “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” [8]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ta trong tình hình mới.
Bốn là, định hướng thiên tài của Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng ta trong Di chúc là việc góp phần xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ quan điểm của mình trước sự bất hoà của phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ, Người viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em” [9]. Đây là lời nhắn gửi của Người đến những người cộng sản chân chính về quan điểm và trách nhiệm của mình vì sự đoàn kết quốc tế trong sáng, vì nền hòa bình thế giới và sự tiến bộ của loài người. Trước lúc đi xa, Người căn dặn Đảng ta: “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình” [10]. Người bày tỏ niềm tin: “Các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại” [11]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới, nên sự vững mạnh của Đảng là: phải khẳng định mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Những di huấn của Người về phong trào cộng sản thế giới và sự cần thiết phải mở rộng quan hệ đối ngoại có ý nghĩa định hướng đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta hiện nay.
Năm là, giá trị định hướng giải phóng con người, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ vì tương lai, tiền đồ tươi đẹp của đất nước.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là quá trình phấn đấu bền bỉ, dài lâu, tiếp nối của nhiều thế hệ cách mạng để chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu và các thế lực thù địch chống phá. Người chỉ rõ Đảng Cộng sản cầm quyền phải có chiến lược chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, để xây dựng thành công chế độ xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [12]. Khẳng định: “Đầu tiên là công việc đối với con người” [13]. Vì thế, Người mong muốn Đảng, Nhà nước phải có chính sách chăm lo cho thương binh, liệt sĩ, cha mẹ, vợ con của họ, cho phụ nữ, thanh niên, nông dân, đồng bào miền xuôi cũng như miền núi không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Phát triển giáo dục, công tác y tế và vệ sinh; có chính sách khoan dung nhất định đối với những nạn nhân của chế độ cũ. Người định hướng về quản lý xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội sau chiến tranh là: “...Mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm” [14].
2. Những kết quả đạt được trong thực tiễn 50 năm thực hiện định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thấm nhuần sâu sắc di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng tình cảm sâu nặng, sự kính trọng đối với Người và ý chí quyết tâm của cả dân tộc, 50 năm qua, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đoàn kết, thống nhất, ra sức phấn đấu thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những nội dung công việc lớn lao và cũng là ước nguyện của Người.
Thực hiện Di chúc của Người, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành thắng lợi vĩ đại bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, non sông thống nhất, đồng bào Nam - Bắc xum họp một nhà, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tình hình chiến sự trên chiến trường miền Nam diễn ra vô cùng ác liệt. Với quyết tâm sắt đá của một dân tộc anh hùng là không chịu khuất phục, không chịu làm nô lệ, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã giáng cho đế quốc Mỹ và tay sai những đòn chí mạng, gây cho chúng những tổn thất lớn về người và vũ khí, trang bị, buộc chúng phải thay đổi chiến lược, sách lược chống phá Việt Nam. Cùng với những thắng lợi to lớn trên chiến trường miền Nam, thắng lợi vang dội của “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng đã buộc đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán và ký kết hiệp định Pa-ri về lập lại hòa bình ở Việt Nam. Sau hiệp định, dù đế quốc Mỹ và tay sai tiếp tục tăng cường sức mạnh trên chiến trường miền Nam, nhưng cuối cùng chúng phải chịu thất bại thảm hại. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 của quân và dân ta đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đúng như dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn” [15].
Thực hiện hiệu quả lời di huấn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng dự cảm thiên tài của mình, Người đã tiên liệu cho Đảng ta những thuận lợi, khó khăn và cả những sai lầm, khuyết điểm có thể mắc phải khi cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Những điều Người trù liệu cho chúng ta vừa thiết thực, cụ thể vừa mang tính chiến lược trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hôm nay. Thực hiện những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, Đảng ta đã tập trung vào những vấn đề then chốt trong xây dựng Đảng là: Ra sức xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật, đề cao tự phê bình và phê bình; trau dồi đạo đức cách mạng. Đây là những vấn đề hệ trọng quyết định sinh mệnh và sự tồn vong của một Đảng cầm quyền. Vì vậy, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong các văn kiện của Đảng, từ Đại hội Đảng lần thứ IV đến Đại hội lần thứ XII, nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được Đảng ta quan tâm, đặt ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Đồng thời Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cũng có những Nghị quyết chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng như: Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 6, khóa X, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, XII... Những lời căn dặn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu cụ thể để mỗi cán bộ, đảng viên phấn đấu, rèn luyện và là những tiêu chí để đánh giá chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng hàng năm.
Từ khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, các nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta cụ thể hóa và được tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao, quyết liệt, mạnh mẽ; nhờ đó, Đảng ta đã giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất cao trong Đảng; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính tri, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta, Nhân dân ta luôn kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, nhân dân có cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc đúng như điều mong muốn của Người. Đảng đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh; từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Thành tựu đổi mới toàn diện đất nước hơn 30 năm qua là những kết quả thực hiện định hướng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong Di chúc. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn. Vì vậy, những vấn đề về văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội ngày càng được quan tâm, bổ sung và hoàn thiện. Chính sách an sinh xã hội đối với con người ngày càng phù hợp với từng đối tượng cụ thể, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực hiện Di chúc của Người, Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa công bằng và tiến bộ xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, chăm lo ngày càng tốt hơn cuộc sống của người dân.
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng con người, về sự chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ cho cách mạng.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa tư tưởng nhân văn sâu sắc về giải phóng xã hội, giải phóng con người, chăm lo cho người dân, cán bộ, chiến sĩ. 50 năm qua, mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, cùng một lúc phải giải quyết nhiều vấn đề cấp bách, song vấn đề con người, vấn đề chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ cho tương lai của đất nước luôn được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta quan tâm, nhất là các chính sách về con người, về người có công với cách mạng, về gia đình thương binh, liệt sĩ, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội luôn được tổ chức thực hiện tốt. Hệ thống pháp luật về con người, quyền con người, các nghị quyết, chính sách phục vụ con người đã được Đảng, Nhà nước ta ban hành và thực hiện có kết quả trong thực tiễn.
Việc quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau luôn được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta nhận thức đầy đủ và thực hiện có hiệu quả bằng các chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển con người Việt Nam thông qua giáo dục, đào tạo, tổ chức các phong trào cách mạng để khuyến khích, động viên sự tự tu dưỡng, rèn luyện và trưởng thành của đoàn viên, thanh niên - chủ nhân xây dựng đất nước. Có thể khẳng định rằng, những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm tổ chức thực hiện tốt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của cách mạng Việt Nam; đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào những thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Ý nghĩa những định hướng thiên tài trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá, có giá trị và ý nghĩa định hướng vô cùng to lớn đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong tình hình mới. Di chúc của Người vạch ra mục tiêu, con đường và phương hướng cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay và mai sau; là sự phản ánh cô đọng toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người: suốt đời “Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Di chúc của Người đã thể hiện những định hướng chiến lược về đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Những di huấn của Người trong Di chúc luôn là nguồn cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy tinh thần yêu nước, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tiến lên giành những thắng lợi mới vẻ vang, đưa cả nước bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định những giá trị trường tồn của bản Di chúc mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Thời gian càng lùi xa, thực tiễn càng vận động, biến đổi, càng chứng minh giá trị và sự định hướng thiên tài trong Di chúc của Người. Bằng tình cảm kính yêu vô hạn và niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mỗi cán bộ, đảng viên và chiến sĩ QĐND Việt Nam hãy chung sức, đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi Di chúc thiêng liêng của Người, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới đúng như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
[1] - Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 612.
[2] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 623.
[3] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 624.
[4] - Hồ Chi Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 617.
[5] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 623.
[6] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 622
[7] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr .622.
[8] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 622.
[9] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 623.
[10] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 623.
[11] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 623.
[12] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 622.
[13] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 616.
[14] - Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 616.
[15] - Hồ Chi Minh toàn tập, Sđd, Tập 15, tr. 618.