(Bqp.vn) - Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc toàn thắng đã mở ra bước ngoặt mới đối với quân đội ta, đó là khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Từ đó, nhiệm vụ công binh bảo đảm cơ động lực lượng cho bộ đội cũng mang một nét đặc trưng mới. Nếu như trong chiến dịch trước đây, công binh bảo đảm cơ động lực lượng chủ yếu cho bộ binh và pháo mang vác thì sang chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, công binh đã phải mở những con đường cho xe cơ giới và xe kéo pháo nặng cơ động tham gia chiến dịch.
Nhìn lại toàn bộ quá trình chiến dịch, có thể nhận thấy việc công binh bảo đảm cơ động lực lượng bao gồm những nội dung chính sau:
1. Bảo đảm đường cho ô tô vận tải hậu cần và kéo pháo vào trận địa là nhiệm vụ quan trọng nhất trong suốt chiến dịch
Trong báo cáo với Bộ Chính trị, ngày 6/12/1953, Tổng Quân uỷ nêu rõ: “Để tiến hành chiến dịch lớn này, ta có nhiều khó khăn, khó khăn lớn nhất vẫn là cung cấp mà chủ yếu vẫn là vấn đề đường sá”. Vì nếu không có đường sá cho ô tô vận tải thì không thể tiến hành được chiến dịch. Tuy nhiên, với trang bị của công binh khi ấy, chỉ có thể mở đường có sẵn và phải triển khai công việc sớm. Do vậy, ngay từ tháng 10/1953, Bộ Tổng Tư lệnh đã điều Trung đoàn Công binh 151 lên Tây Bắc mở đường. Công việc lúc đầu là sửa đường cho xe ô tô vận tải hậu cần và xe kéo pháo vào tập kết chiến dịch, sau đó chống lầy, lún, sụt lở do mưa lũ gây ra và chống phá bom mìn do máy bay địch đánh phá, đặc biệt là mưa lũ phá hoại đường rất nghiêm trọng trên toàn tuyến. Ngày 7/11, Trung đoàn 151 cùng các đơn vị thanh niên xung phong và công nhân giao thông bắt đầu sửa chữa, mở rộng đường số 13. Sau một tuần ta đã sửa xong đoạn đường dài 36 km từ Tạ Khoa đi Cò Nòi. Tiếp sau là đường đến Sơn La, Tuần Giáo; đường Tuần Giáo đi Điện Biên; Tuần Giáo đi Lai Châu và Đường 13 từ Yên Bái nối vào đường 41 ở Tạ Khoa dài tất cả 308 km. Trong đó có 74 cầu (dài tổng cộng 571 m), 21 đường ngắn (dài 895 m), 1.070 kè cống. Ngày 18/11/1953, đoàn xe vận tải gồm 12 chiếc chở chuyến hàng đầu tiên vào mặt trận. Phấn khởi trước chiến công đầu, từ ngày 20/11/1952, Trung đoàn sửa tiếp đoạn đường Cò Nòi - Sơn La - Tuần Giáo dài 120 km. Đoạn này phải dọn 1.600 m3 đất sụt lở, làm 167 cầu cống lớn nhỏ, phải vượt qua 4 đèo cao: Sơn La, Chiềng Puốc, Đèo Mèo, Pha Đin. Ngày 27/11/1953, đường khai thông, xe vận tải chuyển hàng đến Tuần Giáo. Đầu tháng 12/1953, Trung đoàn bắt tay vào sửa đoạn đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ. Cuối tháng 12/1953, toàn tuyến Tuần Giáo - Điện Biên Phủ dài 86 km hoàn thành. Để sửa chữa con đường này, các chiến sĩ công binh Trung đoàn 151 và 400 dân công đã làm việc từ 16 đến 20 giờ mỗi ngày, phá 2.300 m3 đá, đào xúc trên 3.000 m3 đất, làm 47 cầu cống với tổng chiều dài 3.200 m.
Ngoài các đường trên, công binh cùng dân công còn làm đường cho xe thồ từ Sơn La đi Ít Ong tới Lai Châu, Điện Biên dài tổng cộng 121 km và tiến hành chống lầy trên nhiều đoạn bảo đảm cơ động cho chiến dịch. Toàn bộ chiều dài những đoạn chống lầy lên tới 122 km. Đồng thời với việc bảo đảm vận chuyển bằng đường bộ do các đoàn xe ô tô và hàng chục vạn người vận chuyển bằng xe đạp thồ, gánh, vác, Bộ Chỉ huy Mặt trận chủ trương khơi luồng sông Nậm Na, kết hợp vận chuyển gạo bằng đường sông từ Ba Nậm Cúm (biên giới Việt - Trung) về thị xã Lai Châu.
Vấn đề này được đặt ra từ đầu chiến dịch nhưng do sông Nậm Na có tới 103 thác, trong đó có nhiều thác hung dữ nên thuyền, mảng qua lại rất khó khăn. Có chuyến chở 30 tấn gạo, về đến Lai Châu chỉ còn 10 tấn. Nhận nhiệm vụ của Bộ chỉ huy Mặt trận, Trung đoàn 151 giao cho Trung đội 51 (Đại đội 124) dùng thuốc nổ phá 110 thác ghềnh, trong đó có các thác nguy hiểm để mở luồng, hạn chế mức độ nguy hiểm của dòng nước. Công việc mới mẻ, khó khăn, khi bộ đội lặn xuống sâu, áp lực nước làm chảy cả máu tai. Nước chảy xiết đẩy bật người và thuốc nổ ra, làm tịt cả ngòi nổ… Sau khi bàn bạc, thử nghiệm, các chiến sĩ công binh đã tìm ra nhiều cách làm sáng tạo như lấy lá chuối hơ lửa cho mềm để gói thuốc nổ, lấy cơm nếp giã nhuyễn để bọc đầu nổ, buộc chặt khối thuốc nổ vào sào dài để đưa vào sâu trong lòng thác đặt và buộc không để nước cuốn trôi, cắt dây cháy chậm dài để châm lửa trên mặt nước cho chắc chắn và an toàn. Thác dữ bị phá, sông Nậm Na trở nên hiền dịu, trở thành con đường vận tải thuỷ cho hàng trăm bè mảng xuôi dòng đưa về Lai Châu trên 2.000 tấn gạo, góp phần quan trọng vào việc tiếp tế cho chiến dịch…
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến dịch đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp ta có sử dụng nhiều pháo cơ giới. Khi mở đường bảo đảm xe vận tải xong, cuối tháng 12/1953, Trung đoàn 151 chuyển sang bảo đảm đường cho xe kéo pháo từ Tạ Khoa vào Điện Biên Phủ. Trên con đường này, có 76 đoạn bán kính đường vòng hẹp cần phải mở rộng, một số cầu yếu phải tăng cường. Ngoài ra, phải chặt cây lót những đoạn lầy lún, rải đá các đoạn đường lên xuống suối… Do nhiệm vụ gấp, Trung đoàn 151 được tăng cường thêm 2.000 dân công, sau đó được chi viện thêm một trung đoàn bộ binh, Đại đội công binh 309 (Đại đoàn 308), hai tiểu đoàn pháo cao xạ, đưa tổng lực lượng sửa đường Tạ Khoa - Điện Biên Phủ lên tới 5.000 người. Thực hiện ý định ban đầu “đánh nhanh, thắng nhanh” của Bộ Chỉ huy chiến dịch, bảo đảm cho xe kéo pháo nhanh chóng vào mặt trận, Ban Chỉ huy Trung đoàn 151 quyết định mở bán kính đường vòng đến 10 m, nơi thuận lợi mở 12 m. Riêng km 26 và km 40 chỉ mở rộng được 8 m. Ở các đoạn này, các chiến sĩ pháo binh phải tháo pháo ra khỏi xe rồi đẩy qua. Nhờ xác định rõ mức độ sửa đường, tổ chức thi công chặt chẽ nên việc sửa đường hoàn thành đúng thời hạn. Ngày 16/1/1954, Trung đoàn Lựu pháo 54 (24 khẩu 105 mm), tiểu đoàn pháo cao xạ (12 khẩu 37 mm) và các xe bảo đảm, hành quân vào km 70 đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ.
Vừa mở xong đường cho xe kéo pháo, Trung đoàn 151 nhận lệnh tìm con đường đưa pháo vào hướng Tây Bắc Điện Biên Phủ, rồi làm tời dùng tay để kéo pháo vào trận địa. Chỉ trong một ngày (15/1/1954), trung đoàn đã tìm được con đường kéo pháo từ km 70 (Nà Nham) sang Nà Tấu dài 15 km. Đại đoàn 308 khẩn trương và bí mật mở đường, các đơn vị công binh và Đại đoàn 312 chuẩn bị kéo pháo. Từ ngày 17 đến ngày 24/1, một công trường lao động hoành tráng đã hình thành trên các hướng Tây Bắc - Điện Biên Phủ. Bằng sức lao động của hàng vạn con người, có các tời quay tay hỗ trợ, bộ đội ta đã kéo 24 khẩu pháo 105 mm qua sườn núi cheo leo dốc đứng vào trận địa bí mật, an toàn.
2. Xây dựng trận địa cho pháo binh và trận địa vây lấn
Khác hẳn với tính toán chủ quan của địch cho rằng ta không thể đưa pháo vào đủ gần để có thể bắn sâu vào tập đoàn cứ điểm, còn nếu có đưa pháo vào thì các trận địa hoả lực của ta phải bố trí ở các sườn núi đối diện, do đó sẽ bị pháo binh của địch tiêu diệt ngay. Nhưng chúng không ngờ là ta đã làm đường và kéo pháo vào trận địa bắn ở các sườn núi; hầm pháo cũng được xây dựng vững chắc, nguỵ trang chu đáo.
Theo lệnh của Bộ Chỉ huy chiến dịch, lực lượng công binh, cùng pháo binh xây dựng công sự cho pháo. Công sự có thể chịu được sức công phá của đạn pháo 105 mm, có thể đặt pháo trong công sự để bắn. Đây là công việc khó khăn, mới mẻ. Dưới sự hướng dẫn của đồng chí Nguyễn Hữu Hậu - cán bộ tác huấn Trung đoàn 151, các chiến sĩ công binh và pháo binh đã cố gắng rất lớn để làm công sự. Để thực hiện được cách đánh của chiến dịch là vây hãm, tiến công, đột phá lần lượt, vấn đề mấu chốt phải giải quyết là xây dựng trận địa tiến công. Ta đã kéo pháo lên các sườn núi, xây dựng các trận địa pháo vững chắc và bí mật, bất ngờ, bảo đảm cho việc phát huy sức mạnh hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh tiêu diệt từng trung tâm đề kháng của địch. Trận địa pháo binh ta đặt kín đáo trên các sườn núi vây quanh Điện Biên Phủ, và trong tầm bắn có lợi nhất vào trung tâm khu vực mục tiêu, thực hiện “lên cao, vào gần, bắn thắng”.
Thực hiện ý định tác chiến đó, ta đã tiến hành xây dựng trận địa bí mật thiết bị bằng gỗ đất vững chắc, bảo đảm cho pháo của ta hoạt động liên tục cho đến khi kết thúc chiến dịch không phải di chuyển trận địa mà vẫn giữ được bí mật, an toàn. Gỗ để làm công sự là cây to (đường kính 30 cm), được lấy từ xa gần 10 km để giữ bí mật, đất đắp hầm dày 3 m, có hầm được khoét sâu vào vách núi, mỗi hầm đều có các công sự bắn, ẩn nấp, hầm chứa đạn… Sau một tháng lao động căng thẳng, công binh và pháo binh đã làm được 11 trận địa pháo lựu, 21 trận địa pháo cao xạ đúng theo yêu cầu. Đêm 6/3/1954, ta kéo thử hai khẩu pháo vào trận địa. Đêm hôm sau, theo ánh lửa đỏ của các nén hương do công binh dẫn đường, toàn bộ xe, pháo đã vào các trận địa, bảo đảm bí mật, an toàn. Pháo của ta được nguỵ trang khéo đến nỗi máy bay và trinh sát pháo binh địch “không sao phát hiện nổi” (lời thú nhận của Đờ Cát-tơ-ri). Cho dù trước đó, địch còn tin rằng “Việt Minh không thể có cách nào đưa được trọng pháo đến gần vùng xung quanh lòng chảo Điện Biên” thì đến giữa tháng 3/1954, chúng đã phải hết sức kinh ngạc vì pháo binh của ta đã trút bão lửa xuống căn cứ tiền tiêu Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Chưa hết, bộ đội công binh vẫn tiếp tục mở đường đưa pháo áp sát các căn cứ trung tâm Điện Biên Phủ. Những con đường kéo pháo cùng với những trục đường cơ động khác do công binh bảo đảm như những chuỗi dây nổ cực mạnh, quấn chặt quanh cứ điểm Điện Biên Phủ rồi làm cho nó nổ tung lên.
Có thể nói, trong mỗi chiến dịch, mạng đường gồm các trục dọc, trục ngang, các trục đường cho tiến công, vây lấn… đã góp phần không nhỏ cho chiến thắng của ta. Song, ở Điện Biên Phủ, mạng đường chiến dịch có sự độc đáo riêng, đó là hệ thống chiến hào, giao thông hào vừa là đường cơ động chiến đấu, vận chuyển của ta, vừa là công trình chia cắt, vây lấn địch rất hiệu quả.
Bộ đội Công binh tham gia mở đường Tuần giáo - Điện Biên Phủ. (ảnh tư liệu)
Xây dựng trận địa vây lấn cũng là nhiệm vụ bảo đảm công binh cơ động lực lượng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Bởi vậy, ở mặt trận, việc xây dựng trận địa để siết chặt vòng vây, chia cắt địch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Và đây cũng là thành công lớn, là kinh nghiệm nổi bật của ta trong tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Ngay từ giai đoạn đầu chiến dịch, ta đã sớm hình thành thế trận bao vây, xây dựng trận địa tiến công và bao vây, ngày càng siết chặt từng cụm cứ điểm tới tập đoàn cứ điểm, chia cắt thế trận liên hoàn của địch. Hệ thống giao thông hào của các đại đoàn 308, 316, 312, 304 ngày càng thít chặt như những lưỡi dao nhọn chọc thẳng vào khu trung tâm Mường Thanh, chia cắt phân khu Hồng Cúm với phân khu Trung tâm. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ vai đeo súng, tay cầm cuốc, xẻng, bất kể ngày đêm cặm cụi đào hầm trong tầm súng, đạn của giặc, dưới trời mưa và sương giá, mỗi ngày lao động từ 14 đến 18 giờ. Cuốc xẻng mòn vẹt. Mồ hôi và máu của các chiến sĩ ta thấm ướt từng chiến hào. Bất chấp hiểm nguy từ súng đạn của địch rền rĩ đêm ngày, những mạng chiến hào của ta vẫn ngày càng vươn xa đan nhau ngang dọc. Để bảo đảm ý định tác chiến, Bộ Chỉ huy Mặt trận quyết định đưa một số đơn vị thuộc Trung đoàn Công binh 151 lên phía trước tham gia đào chiến hào vây lấn. Hai đại đội công binh 53 và 54 lên đào 1 đường hào cắt đôi sân bay Mường Thanh và xây dựng 1 trận địa ngay sát đầu cầu Mường Thanh. Vừa đào hào, các chiến sĩ công binh vừa bắn tỉa tiêu hao địch. Đại đội công binh 240 (Đại đoàn 312), Đại đội công binh 309 (Đại đoàn 308) cùng tham gia đào hào xuyên qua sân bay Mường Thanh. Địch dùng xe tăng yểm hộ cho máy húc ra lấp hào của ta.
Tháng 4/1954, chiến hào của ta cắt phân khu Nam với phân khu Trung tâm, cắt đôi sân bay Mường Thanh. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị cắt thành từng khúc, khu trung tâm Mường Thanh chỉ còn mỗi bề khoảng hơn một km. Hầm hào đã trở thành một phương tiện tiến công tích cực, có hiệu quả.
3. Mở cửa qua vật cản của địch, đánh bộc phá lớn đồi A1 cũng là nhiệm vụ quan trọng trong bảo đảm công binh cơ động lực lượng
Mở cửa qua vật cản của địch là cuộc chiến đấu quyết liệt và quyết định thành công của việc mở đầu đột phá cứ điểm địch. Do địch bố trí vật cản dày đặc xung quanh cứ điểm và có hoả lực bảo vệ rất chặt chẽ nên muốn đột phá vào cứ điểm địch, nhất thiết phải mở cửa qua vật cản. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, bộ đội ta chưa có khí tài chuyên dụng để mở cửa mà ta phải dùng người lần lượt đưa thuốc nổ vào bãi vật cản của địch. Khó khăn lớn nhất đầu tiên trong mở cửa qua vật cản là phải làm sao xác định vị trí và hướng cửa mở chính xác và cụ thể, sau đó mới tổ chức chỉ huy phối hợp chặt chẽ phân đội bộc phá mở cửa và bộ phận hoả lực kiềm chế có hiệu quả các hoả khí của địch bảo vệ vật cản. Bộ phận xung kích cũng phải kịp thời chớp lấy thời điểm khi cửa vừa mở xong để xung phong vào trong cứ điểm địch, đồng thời phải kiềm chế, không cho địch dùng hoả lực bịt cửa mở.
Trong trận đồi A1, cuộc chiến đấu quyết liệt giữa ta và địch kéo dài đã gần một tháng. Để tạo điều kiện tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy Mặt trận thông qua phương án đào hầm ngầm, đưa lượng nổ lớn vào phá công sự kiên cố của địch trên đồi A1. Đại đội công binh thuộc Đại đoàn 316 triển khai đào được một đoạn đường hầm nhưng có khó khăn về kỹ thuật. Công việc được chuyển giao cho Trung đoàn Công binh 151. Một phân đội đặc biệt gồm 20 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung, cán bộ tác chiến Trung đoàn 151 phụ trách được thành lập. Đêm 20/4/1954, việc đào đường hầm bắt đầu. Khó khăn nhất là khu vực mở cửa đường hầm chỉ cách địch hơn 100 m. Địch liên tục ném lựu đạn, bắn như vãi đạn ra xung quanh, ban đêm dùng đèn pha, pháo sáng để kiểm soát mọi hoạt động của ta. Mặc dù có chiến hào, nhưng một số chiến sĩ đã hy sinh và bị thương mới mở được một đoạn cửa hầm vừa chui lọt một người. Càng vào sâu, công việc càng khó khăn. Đất đào được phải đổ vào túi vải dù đem đổ ra xa, phải dùng đèn pin đã che bớt ánh sáng buộc lên đầu cọc ở cửa đường hầm để ngắm hướng, dùng ống thuốc tiêm để làm thước thăng bằng… Mặt cắt rộng và cao khoảng 0,90 m. Khi chui vào sâu, thiếu dưỡng khí, chiến sĩ đào hầm bị ngất, phải đưa ra ngoài. Có chiến sĩ một đêm bị ngất 4 đến 5 lần nhưng không một ai nao núng mà còn nghĩ ra cách nằm nối tiếp nhau, dùng quạt nan quạt vào trong đường hầm để có thêm dưỡng khí làm việc.
Sau 15 ngày đêm kiên cường, bền bỉ làm nhiệm vụ, đường hầm dài 49 m đã hoàn thành. Chiều và đêm 4/5, khối thuốc nổ gần 1.000 kg chia làm 49 gói, do đồng chí Nguyễn Điệt thiết kế nổ, được xếp vào buồng nổ cuối đường hầm cùng với sáu đường dây chuyền nổ nối vào nụ xoè, dây cháy chậm và một đường dây điểm hoả bằng điện. Phân đội công binh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào đường hầm và đưa thuốc nổ vào lòng đồi A1. Tiếp đó, một tổ của phân đội gồm các đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung, Nguyễn Điệt, Lưu Viết Thoảng và Nguyễn Văn Bạch, do đồng chí Xuyên Khung chỉ huy, được giao nhiệm vụ điều khiển cho bộc phá nổ khi có lệnh. Toàn phân đội công binh đã nêu cao tinh thần dũng cảm, hy sinh để làm nhiệm vụ, trong đó có đồng chí Lưu Viết Thoảng, sau này cùng với thành tích phá bom được tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân.
Với sự đóng góp của bộ đội công binh, sau 55 ngày đêm chiến đấu oanh liệt, bộ đội ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Kết thúc chiến dịch, Trung đoàn Công binh 151 cùng thanh niên xung phong, công nhân giao thông và dân công làm nhiệm vụ bảo đảm đường số 41 (chống lầy lún, sụt lở) cho hàng trăm xe, pháo và các đơn vị rút quân. Sau đó, Trung đoàn lại làm nhiệm vụ quét mìn, dọn dây thép gai, bảo vệ các kho tàng, thu dọn chiến trường, biến cảnh lộn xộn, đổ nát, chết chóc trở lại bình yên, đầy sức sống cho cánh đồng Mường Thanh.
Như vậy, việc tổ chức bảo đảm công binh và sử dụng lực lượng công binh bảo đảm cơ động lực lượng trong chiến dịch Điện Biên Phủ đóng vai trò rất quan trọng. Từ thực tế này có thể rút ra mấy điểm về bảo đảm cơ động lực lượng trong chiến dịch Điện Biên Phủ:
Thứ nhất, nắm chắc ý định tác chiến của địch, tình hình các mặt liên quan, có kế hoạch tổ chức bảo đảm cơ động lực lượng. Các đơn vị công binh phải được giao nhiệm vụ sớm để tạo thuận lợi trong triển khai nhiệm vụ.
Nắm chắc ý định tác chiến và các mặt có liên quan, nhất là tình hình địch, ta, địa hình, lực lượng và khả năng bảo đảm mới có kế hoạch bảo đảm cơ động lực lượng đầy đủ, kịp thời, chính xác, chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ và có phương án tổ chức, sử dụng lực lượng hợp lý, hình thức, biện pháp bảo đảm phù hợp.
Ngay từ đầu năm 1953, nắm được ý định tác chiến lớn trên chiến trường Tây Bắc, Bộ đã chỉ thị cho các đơn vị sửa chữa đường sá, cầu cống; huy động lực lượng, phương tiện, vật chất trên khu vực này. Tháng 10/1953, Trung đoàn Công binh 151 kết hợp lực lượng thanh niên xung phong, dân công, công nhân giao thông triển khai sửa chữa đường 13 và 41 để bảo đảm cho ô tô vận chuyển. Khi chính thức có ý định tác chiến, lực lượng công binh tiến hành sửa chữa các đoạn còn lại trên trục đường 13, 41 để vào Điện Biên Phủ và bảo đảm cho pháo xe kéo vào chiếm lĩnh trận địa. Khối lượng công việc lớn, gần 250 km nhưng với tinh thần quyết tâm, chủ động, linh hoạt, các lực lượng công binh, thanh niên xung phong, dân công… sau 2 tháng đã hoàn thành nhiệm vụ.
Sau khi chiến dịch thay đổi kế hoạch tác chiến từ phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, nắm được ý định, các thủ đoạn địch hoạt động, địa hình, công binh đã tổ chức trinh sát và cùng với các lực lượng Đại đoàn 308, 312 làm 6 tuyến đường mới (63 km), đưa 6 đại đội pháo vào chiếm lĩnh trận địa theo phương án mới kịp thời, đúng ý định, bí mật và an toàn.
Thứ hai, sử dụng rộng rãi và phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng công binh 3 thứ quân trong bảo đảm đường cơ động, lấy lực lượng công binh làm nòng cốt.
Bảo đảm đường cơ động là nhằm mục đích nhanh chóng đưa các lực lượng, nhất là các loại binh khí kỹ thuật, phương tiện cơ giới vận chuyển vật chất hậu cần, kỹ thuật đến các khu vực kịp thời, đúng ý định tác chiến và an toàn trong mọi tình huống. Trong khi diễn biến chiến dịch hết sức khẩn trương, phức tạp và ác liệt, nhiều tình huống xảy ra ngoài dự kiến; khối lượng bảo đảm đường cơ động rất lớn, trên nhiều địa hình phức tạp; lực lượng, phương tiện công binh trong từng chiến dịch còn hạn chế… gây khó khăn rất lớn đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Để đáp ứng yêu cầu tác chiến, việc sử dụng rộng rãi, phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng tham gia bảo đảm đường cơ động trong suốt quá trình tác chiến đã tạo thuận lợi cho các lực lượng tiến hành chiến dịch kịp thời, bí mật.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng công binh bảo đảm đường cơ động có 1 Trung đoàn Công binh 151, chỉ có khả năng sửa chữa, khôi phục trên một số trục đường có sẵn; trong khi, nhu cầu bảo đảm đường cho xe kéo pháo vào trận địa, ô tô vận tải vật chất hậu cần phục vụ cho mấy chục vạn người suốt 5 tháng ở khu vực rừng núi thưa thớt, thời tiết vào mùa mưa và địch thường xuyên đánh phá. Do đó, ngoài Trung đoàn Công binh 151, ta đã huy động tới 5.000 thanh niên xung phong, dân công và lực lượng giao thông, nhân dân tham gia bảo đảm, trải dài suốt gần 250 km đường.
Thứ ba, trong bảo đảm cơ động lực lượng, phải triệt để tận dụng mạng đường có sẵn; kết hợp sửa chữa, khôi phục đường cũ và làm đường mới.
Tác chiến hiệp đồng quân binh chủng có phạm vi rộng, nhiều loại binh khí kỹ thuật, phương tiện cơ giới vận chuyển có nhu cầu cơ động, qua nhiều vùng địa hình phức tạp; địch đánh phá, ngăn chặn quyết liệt; lực lượng, phương tiện bảo đảm đường còn hạn chế, yêu cầu tác chiến khẩn trương; phải bảo đảm trong suốt quá trình tác chiến, từ giai đoạn chuẩn bị đến quá trình thực hành, phát triển và kết thúc chiến dịch, bảo đảm cho rút quân về các khu vực bố trí mới… Vì vậy, khối lượng bảo đảm rất lớn; nếu không tận dụng triệt để mạng đường có sẵn (không những tận dụng các trục đường của ta, mà phải tận dụng cả các trục đường có sẵn của địch) thì không thể hoàn thành nhiệm vụ và điều này tác động rất lớn đến thắng lợi của chiến dịch. Trong từng chiến dịch do khối lượng mở đường mới cũng rất lớn; do đó, phải kết hợp chặt chẽ giữa các trục, đoạn đường có sẵn, tìm chọn các đoạn, trục đường phải mở mới có cự ly ngắn, khối lượng nhỏ, thi công thuận lợi mà vẫn giữ được bí mật ý định tác chiến; đường cấp dưới tận dụng đường của cấp trên để tạo nên mạng đường hoàn chỉnh.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã sử dụng các trục đường 41 có sẵn từ Hòa Bình đến Tuần Giáo (120 km), đoạn đường ô tô có sẵn từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ (90 km); đường 13 từ Yên Bái nối với đường 41. Mặc dù các trục đường trên đều nhỏ hẹp, nhiều đèo dốc hiểm trở, bị hư hỏng nặng nhưng Bộ Chỉ huy chiến dịch đã triển khai Trung đoàn Công binh 151 và các lực lượng thanh niên xung phong, dân công, tổ chức sửa chữa, khôi phục, mở rộng; bảo đảm cho pháo xe kéo cơ động và ô tô vận chuyển vật chất kịp thời. Sau khi kế hoạch tác chiến theo phương châm mới, phải điều chỉnh lại đội hình chiến đấu, quan trọng nhất là đảm bảo cho pháo binh bố trí lại trận địa, phân tán trên các quả đồi ở phía Đông và Tây Bắc. Trung đoàn Công binh 151 đã trinh sát và phối hợp với 2 Đại đoàn 308 và 312 khẩn trương sửa chữa và làm 6 tuyến đường cho ô tô kéo pháo vào vị trí mới. Trong 6 tuyến đường đó, ta chỉ tận dụng đường 1 tuyến có sẵn, còn 5 tuyến phải mở mới. Sau 6 ngày bộ đội ta đã hoàn thành nhiệm vụ, bảo đảm cho 6 đại đội pháo vào đúng vị trí, thời gian quy định, giữ được bí mật. Kết thúc chiến dịch, các đơn vị công binh tận dụng đường 41 trong suốt 2 tháng liền để bảo đảm cho các đơn vị rời khỏi chiến trường Tây Bắc, cơ động về giải phóng vùng đồng bằng.
Thứ tư, vận dụng đa dạng, linh hoạt các hình thức, biện pháp bảo đảm cơ động lực lượng đáp ứng yêu cầu chiến dịch
Trong tác chiến, chiến đấu thường hình thành các giai đoạn: tổ chức chuẩn bị, thực hành, phát triển tác chiến, chiến đấu,… Kết quả từng giai đoạn có tác động lẫn nhau. Vì vậy, tùy tình hình cụ thể của từng chiến dịch, từng khu vực, hướng tác chiến, phải tiến hành các phương pháp, biện pháp, hình thức chuẩn bị và bảo đảm đường cho phù hợp, bảo đảm kịp thời, bí mật, an toàn.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ở giai đoạn tổ chức chuẩn bị, đã hình thành các phương pháp chuẩn bị đường như: rải quân dọc trên toàn tuyến, phân công, giao khoán từng đoạn cho từng đơn vị để thi công; thi công theo kiểu cuốn chiếu, hoàn thành từng đoạn… Sang đến giai đoạn thực hành tác chiến, chiến đấu, hình thành các hình thức bảo đảm: đi cùng đội hình cơ động, chốt tại các trọng điểm hay rải quân chốt tại các vị trí xung yếu trên tuyến để bảo đảm. Lực lượng công binh trong chiến dịch đã tổ chức thành các phân đội nhỏ đi cùng với xe kéo pháo, kết hợp với lực lượng pháo binh, bộ binh để đưa pháo vào trận địa. Lực lượng thanh niên xung phong, dân công, giao thông địa phương tổ chức thành các đội bố trí tại các trọng điểm, các khu vực quan trọng trên đường 13, 41.
Ngay từ khi chuẩn bị chiến dịch, Bộ Chỉ huy chiến dịch xác định đúng đắn rằng bảo đảm đường sá cho tiếp tế hậu cần là khó khăn nhất và quan trọng nhất để tiến hành chiến dịch. Trung đoàn công binh duy nhất của chiến dịch được tập trung vào nhiệm vụ đường xá và còn được tăng cường một lực lượng lớn thanh niên xung phong và dân công. Khi trục đường của chiến dịch bị lũ phá hoại, Bộ Chỉ huy đã huy động mọi lực lượng có thể huy động kể cả đơn vị chiến đấu và cơ quan tham gia để chống lầy và quyết định mở đường vận chuyển theo sông Nậm Na để hỗ trợ tiếp tế. Những biện pháp bảo đảm công binh quan trọng như làm đường để kéo pháo vào trận địa, làm công sự để triển khai pháo, xây dựng hệ thống trận địa vây lấn, làm hầm ngầm đưa lượng nổ lớn vào đánh cứ điểm đồi A1… đều được Bộ Chỉ huy và cơ quan tham mưu chiến dịch quyết định một cách chính xác, linh hoạt và kịp thời, đồng thời tổ chức thực hiện liên tục, kiên quyết, góp phần vào thắng lợi to lớn của chiến dịch.
Từ những trục đường trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975), bộ đội công binh tiếp tục được xây dựng, từng bước trưởng thành toàn diện, lập nhiều chiến công xuất sắc, luôn xứng đáng là lực lượng đi trước về sau, xây nên truyền thống “Mở đường thắng lợi”.